Home / Chia Sẻ / CHƯỚNG TAI

CHƯỚNG TAI

Đời Sống Dồi Dào Nhờ Thánh Thể
Tín Nhân Hạnh Phúc Bởi Lời Ngài

CHƯỚNG TAIKinh Thánh xứng đáng: “Lời ngay thật lưu tồn mãi mãi, lưỡi dối gian chỉ có một thời.” (Cn 12:19) LỜI và LƯỠI liên quan và liên lụy lẫn nhau. Chắc chắn ai cũng yêu thích sự thật, nhưng thực tế lại không như thế, vì người ta không muốn nghe lời thật mà chỉ ưa nghe lời nịnh bợ, tâng bốc.

Một sự thật phũ phàng “chướng tai” có trong trình thuật Ga 6:60-69. Đây là phần cuối diễn từ Chúa Giêsu giảng dạy tại hội đường ở Caphácnaum. Sau khi nghe Ngài nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh và phải ăn uống Thịt Máu Ngài để được sống dồi dào, người Do Thái “nóng gáy” phản đối. Ngay cả nhiều môn đệ của Ngài cũng nói: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” Các môn đệ còn vậy huống chi người ta!

Chúa Giêsu biết các môn đệ xầm xì nên Ngài nói: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là THẦN KHÍ và là SỰ SỐNG.” Và Ngài nói thẳng: “Nhưng trong anh em có những kẻ KHÔNG TIN.” Thật là xấu hổ, mắc cỡ! Mang tiếng là theo Thầy, được Thầy mở lòng trí và được thụ giáo bao điều hay lẽ phải, thế mà lại bị Thầy trách nặng nề như vậy. Sự thật mãi là sự thật, không thể biện hộ, và đừng tưởng mình “ngon lành” hơn người khác. Chúa Giêsu nói rõ ràng, đừng tránh né!

Chúa Giêsu biết rõ ai không tin và ai nộp Ngài. Rồi Ngài nói tiếp: “Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho.” Thế là từ đó, nhiều môn đệ rút lui, không đi theo Ngài nữa. Họ chịu không nổi, họ “choáng” vì nghe toàn là những lời “khó lọt lỗ tai,” đành “bỏ của chạy lấy người” vậy thôi. Ngài không ép ai, được tự do hoàn toàn.

Ngài biết có những người mạnh miệng nhưng nhát đảm, chết khiếp trước khi chết thật, Ngài hỏi thẳng Nhóm Mười Hai: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Hỏi chi khó vậy chứ? Ai cũng ngại trả lời, nhưng ông Phêrô đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” Một lời xác tín mạnh mẽ, “bù” cho lần ông hồ nghi nên suýt chìm trên biển và bị Thầy chê là kém tin, (Mt 14:25-31) và lần ông dám cản bước Thầy nên bị rủa là Satan. (Mc 8:33)

Sự thật không thể che giấu. Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!” Ngài muốn nói về Giuđa, con ông Simôn Ítcariốt, một môn đệ sẽ nộp Ngài. Có lẽ lúc đó nhìn Chúa Giêsu “thấy thương,” vì nét mặt Ngài buồn lắm nhưng chưa tiện nói ra mà thôi!

Ngày xưa, khi ở Sikhem, ông Giôsuê quy tụ mọi chi tộc Israel, đồng thời triệu tập các kỳ mục Israel, các thủ lãnh, thẩm phán và ký lục. Họ hiện diện trước nhan Thiên Chúa. Ông Giôsuê nói với toàn dân: “Nếu anh em KHÔNG BẰNG LÒNG phụng thờ Đức Chúa thì hôm nay anh em CỨ TÙY Ý CHỌN thần mà thờ, hoặc là các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả, hoặc là các thần của người Emôri mà anh em đã chiếm đất để ở. Về phần tôi và gia đình tôi, CHÚNG TÔI SẼ PHỤNG THỜ ĐỨC CHÚA.” (Gs 24:15)

Tự do là điều Thiên Chúa cho chúng ta “tùy ý,” được toàn quyền sử dụng. Rất thoải mái, nhưng phải khôn ngoan mới biết sử dụng đúng đắn – vì có hệ lụy tốt hay xấu theo sau. Thật ra gọi là tự do nhưng chính sự tự do cũng có giới hạn nhất định của nó. Cái khó là ở chỗ đó. Thật may là dân không có ý như ông Giôsuê nghĩ, và họ xác định: “Chúng tôi KHÔNG HỀ có ý lìa bỏ Đức Chúa để phụng thờ các thần khác! Vì chính Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng tôi, đã đem chúng tôi cùng với cha ông chúng tôi lên từ đất Ai Cập, từ nhà nô lệ, đã làm trước mắt chúng tôi những dấu lạ lớn lao đó, đã gìn giữ chúng tôi trên suốt con đường chúng tôi đi, giữa mọi dân tộc chúng tôi đã đi ngang qua. Đức Chúa đã đuổi cho khuất mắt chúng tôi mọi dân tộc cũng như người Emôri ở trong xứ. Về phần chúng tôi, CHÚNG TÔI SẼ PHỤNG THỜ ĐỨC CHÚA, vì Người là Thiên Chúa của chúng tôi.” (Gs 24:16-18)

Ước gì tất cả chúng ta, những người đã được lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, trở nên con cái của Thiên Chúa, biết quan tâm như ông Giôsuê và dân Israel xưa, để có thể kiên trì giữ vững đức tin cho đến hơi thở cuối cùng. Có lẽ lúc này chúng ta có thể lặp lại câu ca dao Việt Nam: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, thì tôi vẫn vững như kiềng ba chân.” Cũng có thể coi chiếc kiềng-ba-chân đó là Tin-Cậy-Mến, ba đức đối thần cần thiết lắm.

Ngày xưa có nhiều lúc nổi lên các bè rối, tà thuyết. Ngày nay không thấy các dạng tương tự, nhưng vẫn luôn có những “làn sóng” nguy hiểm hơn, bởi vì càng văn minh hiện đại thì người ta càng tinh vi trong cách chối bỏ Thiên Chúa. Từ nghi ngờ đến chối bỏ đức tin không bao xa, có thể chỉ như một lằn ranh mong manh. Vì thế, luôn phải tự nhủ: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa.” (Tv 34:2-3a) Và vì yêu thương mà nhắn nhủ người khác: “Xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên.” (Tv 34:3b)

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn chạnh lòng thương những người hèn mọn, thấp cổ, bé miệng, “họ kêu xin, và Chúa đã nhận lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.” (Tv 34:18) Thật vậy, “Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề,” (Tv 34:19) còn người công chính “khi gặp nhiều nỗi gian truân, Ngài giúp họ luôn thoát khỏi.” (Tv 34:20) Có được một vị Thiên Chúa như vậy thì không dám rời xa, chỉ có những kẻ khờ dại hoặc ngu xuẩn mới có mưu đồ phản loạn, chống lại Ngài hoặc chối bỏ Ngài!

Thánh Vịnh gia minh chứng: “Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn, dầu một khúc cũng không giập gãy. Quân gian ác chết vì tội ác, kẻ ghét người lành chuốc án phạt vào thân. Chúa cứu mạng các người tôi tớ, ai ẩn thân bên Chúa không bị phạt bao giờ.” (Tv 34:21-23) Ai cũng đã từng được Chúa cứu thoát nhiều lần, bằng cách này hay cách khác, kể cả những người chưa chân nhận Ngài và tôn thờ Ngài. Chính Ngài đã xác định: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta.” (Ga 10:27) Nghe và sống Lời Chúa là chứng tỏ niềm tin vào Ngài, là sống đạo. Sống đạo từ đâu? Từ chính việc tu thân và ngay tại trong hoàn cảnh sống của mình.

Trình thuật Ep 5:21-32 là lời nhắn nhủ của Thánh Phaolô về việc “gia đình sống đạo” theo tinh thần Kitô giáo giữa đời thường: “Vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau.” Tùng phục nhau không phải theo hệ lụy chủ nhân với tôi tớ, mà đơn giản là lắng nghe nhau, vâng lời nhau, yêu thương nhau, và phục vụ nhau.

Trước tiên là hệ lụy phu thê: “Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội Thánh, thân thể của Người. Và như Hội Thánh tùng phục Đức Kitô thế nào, vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh; như vậy, Người thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh bằng nước và lời hằng sống, để trước mặt Người, có một Hội Thánh xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, không vết nhăn hoặc bất cứ một khuyết điểm nào, nhưng thánh thiện và tinh tuyền. Cũng thế, chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. YÊU VỢ LÀ YÊU CHÍNH MÌNH.” Rất chí lý, bởi vì vợ chồng tuy hai mà một, họ không còn là hai mà chỉ là một mà thôi. (x. Mt 19:6)

Rồi thánh nhân phân tích và dẫn chứng: “Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Sách Thánh có lời chép rằng: Chính vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh.” Và ông kết luận: “Vậy mỗi người trong anh em hãy yêu vợ như chính mình, còn vợ thì hãy kính sợ chồng.”

Nói chung, dù là ai cũng phải tôn trọng nhau, nhất là vợ chồng – những người luôn ở bên nhau cả tinh thần và thể lý. Có tôn trọng nhau mới biết yêu thương nhau và phục vụ nhau theo lệnh truyền của Chúa Giêsu Kitô. Người Anh có câu: “A friend in need is a friend indeed – Khi hoạn nạn mới biết bạn thật.” Người bạn tốt không chỉ ở bên ta khi khó khăn, mà còn dám nói thật mà không sợ ta mất lòng. Chẳng mấy ai có người bạn tốt này!

Học giả Tuân Tử (313-235 trước CN, Trung Hoa) phân định rạch ròi ba loại người chúng ta thường gặp trong cuộc sống: “Người chê ta mà chê đúng, đó là THẦY của ta; người khen ta mà khen đúng, đó là BẠN của ta; còn những kẻ nịnh bợ ta chính là KẺ THÙ của ta vậy.” Thầy – Bạn – Kẻ Thù, các khoảng cách rất nhỏ. Cẩn tắc vô ưu!

Có một tư tưởng hay trong sách Luận Ngữ của Khổng Tử (551-479 trước CN) đáng để chúng ta cùng suy tư: “Tam nhân đồng hành, tất hữu ngã sư yên; trạch kỳ thiện giả nhi tùng chi, kỳ bất thiện giả nhi cải chi” – Ba người cùng đi, có một người là thầy ta; còn các khuyết điểm của họ, hãy lấy đó làm gương để hoàn thiện hơn.

Lạy Chúa, xin tha thứ và ban Thần Khí đổi mới con mỗi ngày, giúp con hoàn thiện theo ý kiến xây dựng của tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …