Home / Học Hỏi Linh Đạo / Tìm hiểu Thông điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót (Bài 24)

Tìm hiểu Thông điệp Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót (Bài 24)

 

Dẫn vào

Đau khổ thực sự và hết sức khủng khiếp

Đau khổ nối tiếp những buồn phiền lo âu

Tại Vườn Cây Dầu đặc biệt trên Núi Sọ

Lòng thương xót đó lạy Chúa xin dủ tình.

Rao giảng về Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, Đức Giêsu đã thật sự làm chứng về thực tại đó – thực tại lòng thương xót của Thiên Chúa Cha – ngay trong cuộc đời của Người qua mọi hành động của Người.

Mầu nhiệm Phục Sinh đỉnh cao cuộc mạc khải

Ngay thời đương đại với sự kiện nhiệm mầu

Ngay cả khởi đầu của công cuộc tạo dựng

Đã có chứa đựng mầu nhiệm lòng xót thương.

Tình thương Thiên Chúa ban tặng cho con người, dù được nhìn từ bất kỳ góc độ nào, cũng luôn hàm chứa và cần phải được nhận ra như yếu tố chủ chốt: lòng thương xót. Đặc biệt, lòng thương xót hiện hữu ngay trong sự viên mãn của ơn Thiên Chúa ban cách nhưng không cho con người tội lỗi: ơn cứu độ.

Trật tự con đường mà Thiên Chúa thiết định

Là sự công chính con người được phục hồi

Là bao tội lỗi con người được tha thứ

Lập lại trật tự nhờ mầu nhiệm Phục Sinh.

Chiến thắng tội lỗi bằng cuộc Tử nạn-Phục sinh, ban ơn tha thứ cho người tội lỗi, hứa hẹn Nước Trời cho những ai tin vào Người và sống niềm tin đó, Đức Giêsu đã mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa Cha trong sự viên mãn của ơn cứu độ Người thực hiện.

Năm lần sử dụng từ mercy trong thông điệp

1. APV V 7,10

  • Christ, as the man who suffers really and in a terrible way in the Garden of Olives and on Calvary, addresses Himself to the Father, that Father whose love He has preached to people, to whose mercy He has borne witness through all of His activity. (V 7,10)           
  • Le Christ, en tant qu’homme qui souffre réellement et terriblement au jardin des Oliviers et sur le Calvaire, s’adresse au Père, à ce Père dont il a annoncé l’amour aux hommes, dont il a fait connaître la miséricorde par toutes ses actions. (V 7,10)
  • Đức Kitô, trong tư cách là người chịu đau khổ thực sự và khủng khiếp tại Vườn Cây Dầu và trên Núi Sọ, hướng lòng về Chúa Cha, là Đấng mà tình thương của Ngài đã được chính Đức Kitô rao giảng cho nhân loại và làm chứng cho lòng thương xót đó của Chúa Cha qua mọi hành động của Người. (V 7,10)

2. APV V 7,18

  • In this way, redemption involves the revelation of mercy in its fullness. (V 7,18) 
  • De la sorte, la rédemption porte en soi la révélation de la miséricorde en sa plénitude. (V 7,18)
  • Như vậy, ơn cứu độ bao gồm sự mạc khải về lòng thương xót trong sự viên mãn của ơn này. (V 7,18)

3. APV V 7,19

  • The Paschal Mystery is the culmination of this revealing and effecting of mercy, which is able to justify man, to restore justice in the sense of that salvific order which God willed from the beginning in man and, through man, in the world. (V 7,19)
  • Le mystère pascal constitue le sommet de cette révélation et de cette mise en œuvre de la miséricorde, qui est capable de justifier l’homme, de rétablir la justice comme réalisation de l’ordre salvifique que Dieu avait voulu dès le commencement dans l’homme, et, par l’homme, dans le monde. (V 7,19)
  • Mầu nhiệm Phục Sinh là đỉnh cao công cuộc mạc khải và hiệu lực của lòng thương xót, có khả năng công chính hóa con người, khôi phục lại sự công chính theo trật tự cứu chuộc mà Thiên Chúa muốn ngay từ khởi thủy nơi con người và trong vũ trụ, qua con người. (V 7,19)         

4. APV V 7,35

  • Believing in this love means believing in mercy. (V 7,35) 
  • Croire en un tel amour signifie croire dans la miséricorde. (V 7,35)
  • Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng thương xót. (V 7,35)

5. APV V 7,36

  • For mercy is an indispensable dimension of love; it is as it were love’s second name and, at the same time, the specific manner in which love is revealed and effected vis-à-vis the reality of the evil that is in the world, affecting and besieging man, insinuating itself even into his heart and capable of causing him to “perish in Gehenna.”[1] (V 7,36)          
  • Celle-ci en effet est la dimension indispensable de l’amour; elle est comme son deuxième nom, et elle est en même temps la manière propre dont il se révèle et se réalise pour s’opposer au mal qui est dans le monde, qui tente et assiège l’homme, s’insinue jusque dans son cœur et peut “le faire périr dans la géhenne” [2]. (V 7,36)
  • Bởi lòng thương xót là chiều kích cần thiết của tình thương; lòng thương xót này là tên gọi thứ hai của tình thương và đồng thời là cách độc đáo để tình thương được mạc khải và thực hiện đối lại với thực tại sự dữ trong thế gian, đang cám dỗ và vây hãm con người, đang luồn lách vào tâm can con người và có thể khiến con người bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.[3] (V 7,36)

Để kết

Đau khổ thực sự và hết sức khủng khiếp

Đau khổ nối tiếp những buồn phiền lo âu

Tại Vườn Cây Dầu đặc biệt trên Núi Sọ

Lòng thương xót đó lạy Chúa xin dủ tình

Mầu nhiệm Phục Sinh đỉnh cao cuộc mạc khải

Ngay thời đương đại với sự kiện nhiệm mầu

Ngay cả khởi đầu của công cuộc tạo dựng

Đã có chứa đựng mầu nhiệm lòng xót thương

Trật tự con đường mà Thiên Chúa thiết định

Là sự công chính con người được phục hồi

Là bao tội lỗi con người được tha thứ

Lập lại trật tự nhờ mầu nhiệm Phục Sinh.

Thật vậy, sự viên mãn của ơn cứu độ trong Mầu nhiệm Phục Sinh được nhận biết qua: (1) “Đức Kitô, trong tư cách là người chịu đau khổ thực sự và khủng khiếp tại Vườn Cây Dầu và trên Núi Sọ, hướng lòng về Chúa Cha, là Đấng mà tình thương của Ngài đã được chính Đức Kitô rao giảng cho nhân loại và làm chứng cho lòng thương xót đó của Chúa Cha qua mọi hành động của Người” (V 7,10); (2) “Như vậy, ơn cứu độ bao gồm sự mạc khải về lòng thương xót trong sự viên mãn của ơn này” (V 7,18); (3) “Mầu nhiệm Phục Sinh là đỉnh cao công cuộc mạc khải và hiệu lực của lòng thương xót, có khả năng công chính hóa con người, khôi phục lại sự công chính theo trật tự cứu chuộc mà Thiên Chúa muốn ngay từ khởi thủy nơi con người và trong vũ trụ, qua con người” (V 7,19); (4) “Tin vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng thương xót” (V 7,35); và (5) “Bởi lòng thương xót là chiều kích cần thiết của tình thương; lòng thương xót này là tên gọi thứ hai của tình thương và đồng thời là cách độc đáo để tình thương được mạc khải và thực hiện đối lại với thực tại sự dữ trong thế gian, đang cám dỗ và vây hãm con người, đang luồn lách vào tâm can con người và có thể khiến con người bị “tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục’” (V 7,36).

LM. G.Tạ Huy Hoàng


[1] Mt 10:28. Lời người chuyển ngữ: vis-à-vis là cụm từ Pháp ngữ, có nghĩa là “face to face, in relation to” trong Anh ngữ.

[2] Mt 10,28.

[3] Mt 10,28.

Xem thêm

SỐNG TRONG TÌNH CHÚA

SỐNG TRONG TÌNH CHÚA

Chúa Bảo Ở Lại Trong Tình Chúa Con Nghe Bằng Tai Chẳng Nhớ Lời Phàm …