KHỔ TÂM CÔNG CHÍNH
“Này đây trinh nữ sẽ mang thai, hạ sinh một con trai, và người ta sẽ gọi tên Người là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” (Mt 1:21). Đó là lời thiên sứ báo mộng cho Người-Công-Chính Giuse biết về việc Vị Hôn Thê Maria mang thai, nhưng đó lại là nỗi khổ tâm của Chàng Giuse công chính.
Cuộc sống có nhiều dạng khổ, nhưng có lẽ khổ tâm là thứ khổ khiến người ta dằn vặt và ray rứt dữ dội nhất. Người ngay lành mới khổ tâm, dù sai lầm của họ không do cố ý, còn người xấu bụng chẳng khổ tâm chi.
Giuse và Maria mới đính hôn. Nghe tin Chị Êlidabét mang thai, Cô Maria đi thăm. Khoảng ba tháng sau, khi Cô Maria trở về, Chàng Giuse vui mừng gặp lại, và sau đó là nỗi khổ tâm khi nghe tiếng sét đánh ngang tai: Vị Hôn Thê Maria có thai. Tiến thoái lưỡng nan, thật khó xử, nhưng Chàng Giuse công chính nhất quyết không muốn làm phiền bất cứ ai!
Trình thuật Is 7:10-14 cho biết rằng Đức Chúa cho phép vua A-khát được quyền “làm phiền” Ngài, nhưng ông không dám. Rồi một lần nữa, Đức Chúa lại động viên ông: “Ngươi CỨ XIN Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi ban cho ngươi một dấu dưới đáy âm phủ hoặc trên chốn cao xanh”. Điều này cho thấy vua A-khát phải là người đẹp lòng Thiên Chúa lắm nên mới được ưu tiên như vậy. Tuy nhiên, ông vẫn không dám, và ông trả lời: “Con sẽ không xin, con không dám thử thách Đức Chúa”. Vua A-khát được phép mà vẫn không dám.
Còn chúng ta? Có thể cách “đòi hỏi” của chúng ta ngày nay tinh vi hơn nên khó có thể nhận biết, nhưng chúng ta vẫn thử thách Chúa ngay trong lời cầu nguyện, thế mà chúng ta vẫn cho đó không là thử thách: Xin cho con được cái này, điều nọ, xin như ý,… Không được như ý mình thì sao đây? Thật là nguy hiểm khi “xin được như ý”.
Dân chúng ngày xưa và ngày nay đâu có “chênh lệch” nhau nhiều về tính thực dụng, mỗi thời mỗi kiểu. Thấy dân chúng thực dụng nên ông Isaia đã phải chạnh lòng và lên tiếng kêu gọi: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi LÀM PHIỀN thiên hạ chưa đủ sao, mà còn MUỐN LÀM PHIỀN cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuel”.
Nếu đọc câu tiếp theo, chúng ta biết thêm một điều thú vị về loại thực phẩm mà Con Trẻ sử dụng khi mặc xác phàm. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Con trẻ sẽ ăn SỮA CHUA và MẬT ONG cho tới khi biết bỏ cái xấu mà chọn cái tốt” (Is 7:15). Điều này cho thấy rằng, về nhân tính, Con-Chúa-làm-người vẫn phải theo một quy trình phát triển mà Thiên Chúa đã quy định, cũng ăn uống để tăng trưởng thể lý và phát triển dần dần như một phàm nhân, cũng biểu hiện đủ thất tình (Hỉ, Nộ, Ai, Lạc, Ái, Ố, Dục), cũng mắc bệnh vì ảnh hưởng thời tiết, môi trường, thực phẩm,…
Đấng Emmanuel sinh ra là một Trẻ Thơ, sinh ra để cứu nhân loại. Là Con Trẻ nhưng lại chính là “Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, Người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình” (Is 9:5).
Đấng Emmanuel là Thiên Chúa Ngôi Hai, là Ngôi Lời, là Đấng mà Thánh Gioan đã xác định: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1:3). Trước đó vài ngàn năm, tác giả Thánh Vịnh cũng đã minh định: “Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông” (Tv 24:1-2). Chắc chắn là như thế, lịch sử và khoa học, đặc biệt là khảo cổ học, càng ngày càng phát hiện những bằng chứng cho thấy Thiên Chúa mà chúng ta đang tôn thờ là Thiên Chúa đích thực và duy nhất.
Thiên Chúa là ĐẤNG THÁNH (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16). Thần dân của Ngài phải nên thánh, thế nên Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Vì có nên thánh mới có thể và mới dám đến gần Ngài. Thật vậy, các linh hồn đang ở Luyện Hình để thanh tẩy trước khi diện kiến Thiên Chúa, không thanh luyện mà cho phép nhìn Thiên Chúa thì các linh hồn cũng KHÔNG DÁM. Thật vậy, khi nghe Thiên Chúa gọi, ông Môsê đã phải che mặt vì thấy mình bất xứng: “Ông Môsê che mặt đi vì sợ nhìn phải Thiên Chúa” (Xh 3:6).
Tác giả Thánh Vịnh đã đặt vấn đề và trả lời: “Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề gian thề dối. Người ấy sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. Đây chính là dòng dõi những kẻ kiếm tìm Người, tìm thánh nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp” (Tv 24:3-6). Nên thánh không chỉ là lời khuyến cáo mà còn là mệnh lệnh mạnh mẽ của Thiên Chúa: “Các ngươi PHẢI NÊN THÁNH và PHẢI THÁNH THIỆN” (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:7).
Như đã nói, “nên thánh là điều khó”, nhưng không phải là không làm được. Ỷ vào sức mình thì “chết chắc”, vì thế mà phải khiêm nhường và cậy vào ơn Chúa. Thánh Phaolô đã từng hung hãn và dữ tợn triệt bất cứ ai nhận mình là môn đệ của Đức Kitô, nhưng rồi ông đã phải “bó toàn thân” trước uy quyền của Thiên Chúa. Từ đó, ông biến đổi thành một con-người-mới hoàn toàn: “Tôi là Phaolô, tôi tớ của Đức Giêsu Kitô; tôi được gọi làm Tông Đồ, và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ của Người mà hứa trước trong Kinh Thánh. Đó là Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 1:1-3).
Thánh Phaolô giải thích: “Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng. Nhờ Người, chúng tôi đã nhận được đặc ân và chức vụ Tông Đồ, làm cho hết thảy các dân ngoại vâng phục Tin Mừng hầu danh Người được rạng rỡ. Trong số đó, có cả anh em, là những người đã được kêu gọi để thuộc về Đức Giêsu Kitô” (Rm 1:4-6). Người thuộc về Thiên Chúa thì không thể không hoàn thiện để nên thánh. Rất lô-gích. Hoàn toàn hợp lý.
Cuối cùng, Thánh Phaolô nói rõ rằng chúng ta là “những người ĐƯỢC Thiên Chúa yêu thương, ĐƯỢC kêu gọi LÀM DÂN THÁNH”, và ông cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an” (Rm 1:7). Rất rõ ràng. Thế thì không có lý do gì chúng ta lại từ chối sống thánh thiện để nên thánh, và tất nhiên chúng ta phải nhiều điều phiền toái, rất khổ tâm trên con đường hoán cải để được công chính hóa.
Đức Thánh Giuse là người được tôn vinh là “Đấng Công Chính”, nhưng chính ngài đã chịu giằng co rất nhiều, khổ tâm lắm, nhất là khi nghe tin Đức Maria mang thai. Để biện minh, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến truyền tin cho Chàng Giuse (Mt 1:18-24; Lc 2:1-7).
Chàng Giuse là người công chính và không muốn tố giác bà, nên định tâm bỏ Vị Hôn Thê để ra đi âm thầm, lặng lẽ và kín đáo. Chàng Giuse đang toan tính như vậy thì sứ thần Chúa hiện đến báo mộng rạch ròi: “Này Chú Giuse, con cháu Đa-vít, đừng ngại đón Cô Maria về, vì người con Cô cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Cô sẽ sinh con trai và Chú phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ”. Thiên Chúa toàn năng, biến không thành có, “chẳng có là không thể đối với Thiên Chúa” (Lc 1:37).
Và tất nhiên là Chú Giuse đã tin, chấp nhận tất cả, và vui vẻ làm theo lời sứ thần truyền dạy. Thánh sử Mátthêu cho biết: “Tất cả sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”.
Tất cả đều là Thánh ý của Thiên Chúa. Và giờ đây, chúng ta lại một lần nữa chuẩn bị hân hoan kỷ niệm ngày Con Thiên Chúa giáng sinh làm người, ở giữa chúng ta, cùng chia sẻ mọi vui buồn sướng khổ của kiếp phàm nhân. Kiếp người là kiếp khổ, nhưng có Con Chúa đồng hành thì mọi thứ sẽ xuôi chèo, mát mái. Khổ tâm này rồi sẽ biến thành niềm hoan lạc vô tận. Càng chịu đựng nỗi khổ lớn thì niềm hạnh phúc càng tràn ngập.
Hôm nay một ngọn-nến-tím nữa được thắp sáng, vậy là cả ba ngọn-nến-tím đã được thắp sáng cùng với một ngọn-nến-hồng. Thời gian mừng lễ Chúa Giáng Sinh đã gần, nhưng hãy luôn nhớ chờ mong Ngày Quang Lâm của Chúa Giêsu – lần quyết định vận mệnh của chúng ta. Thiết tưởng rằng thời điểm này cũng cần suy nghĩ về lời giới thiệu của Thánh Gioan tông đồ nói về Thánh Gioan Tẩy Giả: “Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1:7-9).
Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16:16). Viên cai ngục đã hỏi cách được cứu độ, ông Phaolô đã xác định: “Hãy tin vào Chúa Giêsu thì ông và cả nhà sẽ được cứu độ” (Cv 16:31). Hãy tái xác tín và luôn tha thiết cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài!”. Nhờ tin mà người ta được công chính hóa và được giải án tuyên công – nghĩa là được lãnh nhận Ơn Cứu Độ. Đó là mục đích cuối cùng của chúng ta!
Hãy nghiêm túc thề hứa với Thiên Chúa: “Con sẽ không xin, con không dám thử thách Đức Chúa” (Is 7:12). Cứ vững lòng tín thác, chắc chắn Ngài sẽ thực hiện công lý: “Người sẽ mở rộng quyền bính và lập nền hòa bình vô tận” (Is 9:6). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (Ep 2:4) và không đành chợp mắt ngủ quên (Tv 121:4), Ngài sẽ sớm bù đắp cho Nỗi-Khổ-Tâm-Công-Chính của đám dân oan, các thần dân trung tín với Ngài.
Lạy Đấng Công Lý và Chân Lý, xin giúp con dám thẳng thắn nói sự thật, noi gương Con Ngài đến để bảo vệ Chân Lý, dù con biết vì thế mà con bị ghét. Xin Ngài giúp con biết đón nhận mọi đau khổ của kiếp người như tặng phẩm vô giá Ngài trao, để qua đó, con có thể làm vinh danh Ngài và cứu rỗi nhiều linh hồn theo ý Ngài.
Lạy Đấng-bị-từ-khước-ngay-tại-nhà-mình (Ga 1:11), xin giúp con gặp được Ngài qua tha nhân. Con không dám xin Ngài làm phép lạ, nhưng xin Ngài thêm cho con ba đức đối thần: Tin, Cậy, Mến – mọi nơi và mọi lúc, để con có thể “sống lạ” theo đúng Tôn Ý Ngài.
Lạy Đấng Emmanuel, xin luôn ở bên con, Ngài là Đấng hằng sinh và hiển trị cùng với Thiên Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU