Tin là một chuyện, vững tin là một chuyện. Có vẻ giống nhau nhưng khác nhau. Có vẻ đơn giản mà không hề đơn giản, thậm chí là phức tạp, nhiêu khê lắm.
Chúa Giêsu động viên: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.” (Ga 14:1) Cuộc sống không hề đơn giản, nhiệm vụ nào cũng khó, vì thế Cuộc sống đã và đang chứng tỏ cho chúng ta thấy như vậy, đúng là chỉ có Thiên Chúa là cứu cách và cùng đích, thiếu Đức Kitô thì chúng ta không thể làm được gì, dù là điều nhỏ nhoi. (x. Ga 15:5) Chúng ta có hoang mang hoặc lo sợ thì cũng chẳng “chuyển hóa” được gì. Thật vậy, có lần Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được.” (Mt 5:36) Chúng ta chỉ còn cách sống theo lời khuyên của Ngài: “Đừng xao xuyến!” Có nghĩa là cứ “vô tư” mà sống, không dao động trước mọi tình huống.
Người ta nói: “Lo bạc râu, sầu bạc tóc.” Thật ra có lo cũng chẳng được, cái gì đến sẽ đến. Lo lắm thì khổ nhiều! Sống theo lời Chúa Giêsu khuyên “đừng xao xuyến” là tin vào sự quan phòng tiền định của Thiên Chúa. Cách nói “không xao xuyến” cũng có nghĩa là đừng chạy theo những gì người ta cho là “sự lạ,” dạng này thường được “chú ý,” nếu vậy thì chưa thực sự tin vào Thiên Chúa, chưa thực sự tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Không nên xao xuyến vì Chúa Giêsu xác định: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:2-3) Người đời cũng nhận định: “Sinh ký, tử quy – sống gởi, thác về.” Thế gian chỉ là tạm bợ, chóng hết, mau qua, là chuyến lữ hành về Thiên Đàng. Thánh nữ Catarina khuyên: “Cuộc đời như chiếc cầu, hãy đi qua chứ đừng dừng lại trên đó.” Chết không là “chấm hết” mà chỉ là biến đổi, là “ngưỡng cửa” để bước vào sự sống đời đời.
Thật hạnh phúc cho chúng ta vì được Chúa Giêsu hứa: “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” Đó là niềm hạnh phúc của mọi niềm hạnh phúc, là cùng đích của chúng ta! Chúa Giêsu nói: “Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi.” Nghe vậy, ông Tôma hỏi ngay: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” Ngài xác định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Và Ngài nói thêm: “Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người.” (Ga 14:7) Thế thì thật tuyệt!
Rồi ông Philípphê xin Ngài tỏ cho thấy Chúa Cha để được mãn nguyện, nhưng Ngài trách ông Philípphê ở với Ngài bao lâu rồi mà lại “hỏi ngớ ngẩn” như vậy. Và Ngài xác định: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha.” (Ga 14:9) Chắc chắn đó là cách hiểu vượt quá tầm hiểu của phàm nhân, nếu chúng ta ở bên Chúa Giêsu hồi đó thì chúng ta cũng vẫn “ngớ ngẩn” như ông Philípphê mà thôi.
Chúa Giêsu giải thích thêm: “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14:10-12) Chắc hẳn Ngài cũng nói với mỗi chúng ta ngày nay.
Một lần nữa, Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của Đức Tin. Khi có đủ niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, luôn quan phòng tiền định mỗi người theo ơn gọi riêng, người ta sẽ thanh thản sống theo lời Ngài động viên: “Đừng xao xuyến!” Ước gì mỗi chúng ta có thể xác tín: “Chúa là gia nghiệp đời con.” (Tv 16:5-6)
Trên thế giới, các ngôn ngữ đều có dạng mệnh lệnh cách, dạng câu ngắn nhất chỉ có một động từ. Mệnh lệnh dùng để khuyến khích hoặc ngăn cấm, có thể là mệnh lệnh xác định hoặc mệnh lệnh phủ định. Mỗi dạng mệnh lệnh đều có đặc tính nhất định. Mệnh lệnh xác định thường dùng để khuyến khích hoặc động viên, mệnh lệnh phủ định thường dùng để ngăn cấm. Nhưng Chúa Giêsu sử dụng mệnh lệnh phủ định để khuyến khích chứ không ngăn cấm: “Đừng xao xuyến!” (Ga 14:1; Ga 14:27)
Thánh Phêrô cũng khuyến khích tương tự: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến.” (1 Pr 3:14) Động viên “đừng sợ và đừng xao xuyến” cũng có nghĩa là “đừng nhút nhát và đừng lo lắng.” Như vậy có nghĩa là phải can đảm, muốn can đảm thì phải mạnh mẽ, muốn mạnh mẽ thì phải cầu xin Chúa Thánh Thần: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!” Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết Ngôi Ba Thiên Chúa là Chúa Thánh Thần hoặc Thần Khí, nhưng đôi khi có thể lầm lẫn, vì thế Thánh Gioan khuyên phải cảnh giác: “Anh em ĐỪNG cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy CÂN NHẮC các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian. Căn cứ vào điều này, anh em nhận ra thần khí của Thiên Chúa: thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Đấng đã đến và trở nên người phàm thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn thần khí nào không tuyên xưng Đức Giêsu thì không bởi Thiên Chúa, đó là thần khí của tên phản Kitô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4:1-3)
Lời cảnh báo của Thánh Gioan rất đáng ngại. Chúng ta cũng đã và đang thấy nhiều thứ giả, trong đó có “người giả” đủ loại – cả đời và đạo. Những điều tương tự cũng đã được Đức Mẹ nhiều lần tiên báo. Do đó, sự cảnh giác càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong thế kỷ XXI đầy những khó khăn này, càng văn minh càng nhiêu khê, càng rắc rối. Cuộc sống luôn có nhiều thứ khiến chúng ta xao xuyến, chia trí. Ma quỷ có thiên hình vạn trạng, nó len lỏi vào bất cứ nơi nào, thậm chí ma quỷ có thể cám dỗ chúng ta cảm thấy mình đạo đức và thánh thiện. Đó là dạng cám dỗ “giả hình” rất nguy hiểm. Thà nó cám dỗ chúng ta khô khan, phạm tội, hoặc “quay lưng” lại với Chúa thì chúng ta dễ nhận ra, đằng này nó lại làm cho chúng ta cảm thấy rất gần Chúa, nhưng chỉ là “bẫy ảo giác” khiến chúng ta dễ sập bẫy. Luôn phải tỉnh thức – cảnh giác với cả chính mình!
Chỉ có Chúa Giêsu xác định: “Tôi là Thiên Chúa.” Không người lập đạo nào dám nói như vậy, cũng không ai làm được những phép lạ như Chúa Giêsu đã làm. Và cũng chỉ có Chúa Giêsu nói: “Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống.” (Ga 14:6) Đơn giản như vậy thôi cũng đủ để chúng ta biết đâu là “chân lý thật” và đâu là “chân lý giả.” Chính khoa học và khoa khảo cổ càng ngày càng phát hiện những điều chính xác như Kinh Thánh đã đề cập hàng ngàn năm trước. Các giáo phái ly khai với Công giáo, nghĩa là trước đó chính họ là Công giáo, chỉ vì theo ý riêng chứ không muốn theo ý chung của Giáo Hội. Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát chúng ta. (Ga 8:32)
Sách Công Vụ đưa ra bằng chứng cụ thể: Khi nghe ông Phêrô rao giảng việc ăn năn sám hối, chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội, và nhận được ân huệ là Thánh Thần, ngay lúc đó đã có khoảng ba ngàn người theo đạo. (Cv 2:38-41) Đâu có thể đơn giản mà có số người đông như vậy cùng gia nhập đạo một lúc, cũng đâu phải họ theo đạo cho vui hoặc có lợi về vật chất! Hằng tháng, tại nhiều nhà thờ Công giáo vẫn có những người trưởng thành (chứ không nói chi trẻ em) vui mừng lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy. Đó là những bằng chứng hùng hồn, phép lạ thực sự mà Chúa Thánh Thần vẫn đang tác động không ngừng trong Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Giêsu Kitô.
Chúng ta cũng vẫn thấy có những người gia nhập Công giáo khi họ đã thực sự trưởng thành (tâm sinh lý), thậm chí là lớn tuổi, họ sống đạo rất tốt với một đức tin trưởng thành và vững mạnh. Đặc biệt là có những người theo đạo Công giáo rồi đi tu trở thành tu sĩ hoặc linh mục – trong đó có Lm Thiên Phong Bửu Dưỡng. [*] Họ là những người đã trưởng thành, chắc chắn không ai có thể “dụ dỗ” được họ nếu họ không thực sự tin vào Đức-Giêsu-nhập-thể-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh. Ai cảm thấy còn “đắn đo,” hãy cố gắng củng cố và giữ vững lòng tin, hãy hãnh diện về Đức Tin Công giáo, và đừng bao giờ xao xuyến vì bất cứ điều gì!
Giáo hội Công giáo đặt ra tiêu chuẩn cao về luân lý, rất cảm thông với người bất đồng ý kiến, nhưng không nhượng bộ bất kỳ áp lực nào. Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng Chúa Giêsu không chỉ chịu chết vì chúng ta, mà Ngài còn thiết lập bí tích Hòa Giải để tha thứ tội lỗi, để thương xót và trao ban ân sủng, giúp người ta sống đời sống luân lý tốt hơn.
Ngày xưa, khi Chúa Giêsu đã phục sinh và số môn đệ thêm đông, các tín hữu Do Thái theo văn hóa Hy Lạp đã kêu trách các tín hữu Do Thái bản xứ, vì trong việc phân phát lương thực hằng ngày, các bà góa trong nhóm họ bị bỏ quên. Bởi thế, Nhóm Mười Hai triệu tập toàn thể các môn đệ và nói: “Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống là điều không phải. Vậy, thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa.” (Cv 6:2-4)
Kinh Thánh cho biết: “Đề nghị đó được mọi người tán thành. Họ chọn ông Stêphanô, một người đầy lòng tin và đầy Thánh Thần, cùng với các ông Philípphê, Pơrôkhôrô, Nicano, Timôn, Pácmêna và ông Nicôla, một người ngoại quê Antiôkhia đã theo đạo Do Thái. Họ đưa các ông ra trước mặt các Tông Đồ. Sau khi cầu nguyện, các Tông Đồ đặt tay trên các ông. Lời Thiên Chúa vẫn lan tràn, và tại Giêrusalem, số các môn đệ tăng thêm rất nhiều, lại cũng có một đám rất đông các tư tế đón nhận đức tin.” (Cv 6:5-7) Đó là Nhóm Bảy Người – các Phó tế đầu tiên của Giáo hội, trong đó có Phó tế Stêphanô về sau chịu tử đạo. Và không chỉ có Phó tế Stêphanô mà còn biết bao vị tử đạo khác đã xả thân vì danh Đức Giêsu Kitô, ở mọi nơi và mọi thời. Ngày nay cũng vẫn có các chứng nhân ở đâu đó trên thế giới…
Kitô hữu có niềm hãnh diện rất đặc biệt là “Thập Giá của Đức Giêsu Kitô.” (Gl 6:14) Chắc chắn không ai và không tôn giáo nào có dạng vinh quang “ngược đời” như Kitô giáo. Bất cứ ai cũng sợ đau khổ, nhưng khi đã cảm nhận được đau khổ thì người ta lại bị đau khổ thu hút. Thập Giá có sức hấp dẫn kỳ lạ.
Vô tri bất mộ. Người không có niềm tin Kitô giáo sẽ chẳng bao giờ hiểu được điều đó, thế nên người vô thần bảo tôn giáo là thuốc phiện đã “ru ngủ” các Kitô hữu – những người có vinh quang là Thập Giá của Đức Kitô. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Người công chính, hãy reo hò mừng Chúa, kẻ ngay lành, nào cất tiếng ngợi khen. Tạ ơn Chúa, gieo vạn tiếng đàn cầm, kính mừng Người, gảy muôn cung đàn sắt.” (Tv 33:1-2) Và Thánh Vịnh gia giải thích luôn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hòa mặt đất.” (Tv 33:4-5)
Có điều kỳ lạ là Thiên Chúa yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm 5:8) còn thù nghịch với Ngài, (Rm 5:10) thậm chí Ngài còn chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu đó quá lớn lao, lòng thương xót quá bao la và sâu thẳm, vì Ngài chính là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16) Thiên Chúa luôn quan tâm chúng ta: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn.” (Tv 33:18-19) Nhưng mỗi chúng ta phải tự xét mình, như Thánh Giacôbê phân tích: “Ai cho mình đạo đức mà không kiềm chế miệng lưỡi là tự dối lòng mình, vì đó chỉ là thứ đạo đức hão.” (Gc 1:26)
Thánh Phêrô vừa khuyên nhủ vừa động viên: “Anh em hãy tiến lại gần Đức Kitô, viên đá sống động bị người ta loại bỏ, nhưng đã được Thiên Chúa chọn lựa và coi là quý giá. Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giêsu Kitô. Quả thật, có lời Kinh Thánh chép: Này đây Ta đặt tại Sion một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng.” (1 Pr 2:4-6) Chúng ta không thể nào hiểu nổi Lòng Chúa Thương Xót vì quá đỗi kỳ diệu, nhiệm mầu khôn tả!
Về hạnh phúc của các Kitô hữu, những người được tái sinh bởi Nước và Thánh Thần, Thánh Phêrô cho biết: “Vậy vinh dự cho anh em là những người tin, còn đối với những kẻ không tin thì viên đá thợ xây loại bỏ đã trở nên đá tảng góc tường, và cũng là viên đá làm cho vấp, tảng đá làm cho ngã. Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy. Còn anh em, anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.” (1 Pr 2:7-9)
Có nhiều dạng ơn thiên triệu, nói theo bình dân là “ơn gọi,” và ơn thiên triệu nào cũng cao cả: Ơn gọi tu trì, ơn gọi kết hôn, ơn gọi độc thân,… Ơn gọi nào cũng là để hoàn tất sứ vụ theo kế hoạch của Thiên Chúa dành cho họ.
Lạy Thiên Chúa từ ái, xin thêm đức tin và can đảm để chúng con cho toàn bổn phận Ngài giao phó, không dao động trước mọi nghịch cảnh; xin thánh hóa và ban Thần Khí để chúng con sống trọn Thánh Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
[*] Lm Bửu Dưỡng (OP, Dòng Đa Minh, 1907-1987). Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư.
Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính. Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc và tôn sùng đạo Phật, Bửu Dưỡng cũng rất ác cảm với Công giáo, nhưng “duyên Trời” ấn định khác.
Thượng tuần tháng 5-1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và gia nhập dòng Xitô (Cistercians). Lm Bề Trên Henri Denis (Cố Thuận, người Pháp) trực tiếp dạy giáo lý. Lễ rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15-8-1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bôniphaxiô (Bonifacius), nghĩa là “bộ mặt đẹp.” Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là Phó tế Tađêô Lê Hữu Từ (sau đó làm giám mục).
Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian này, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng này nhưng không thành…
Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.
Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.
Sau một năm tập viện, ngày 26-11-1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẫu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn chấp nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.
Lễ phong chức được cử hành ngày 2-2-1940. Từ đó, linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.
Trong “Cuộc Hành Trình Của Đời Tôi,” Lm Bửu Dưỡng viết: “Trước kia tôi rất ghét Kitô giáo và không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa,’ tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời.’ Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ. Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng này kéo dài trong suốt ba năm liền… Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn… Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’ Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng. Không bao giờ! Dù nó đúng, nó trật, nó hay… nhưng ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn.”
Ý Chúa nhiệm mầu, một Bửu Dưỡng thù ghét Công giáo đã trở thành một Bửu Dưỡng yêu mến Công giáo, và trở thành Linh mục Công giáo. Lm Bửu Dưỡng còn là người mở Học viện Minh Đức (Thủ Đức) nổi tiếng một thời trước năm 1975. May mắn tôi được gặp ngài một lần, được đọc cuốn “Ý Nghĩa Sự Đau Khổ” của ngài và “Công Đồng Vatican III” do ngài viễn tưởng. Trí óc của ngài đúng là một học giả hiếm có.