Tại Hoa Kỳ, một trong 10 trường hợp sinh con là “mẹ nhí.” Theo tường trình của Viện Guttmatcher năm 2006, thống kê về vấn đề mang thai ở tuổi thiếu niên tại Hoa Kỳ có 10 yếu tố:
- Hằng năm có 3/4 trong số 1 triệu thiếu niên mang thai trong độ tuổi từ 15 tới 19.
- Một số thiếu niên trở thành “mẹ nhí” lại dự định làm vậy. Trong số “mẹ nhí,” 82% không được định hướng. Hằng năm có tới 20% số “mẹ nhí” không có kế hoạch hóa.
- Có 2/3 số “mẹ nhí” ở độ tuổi 18-19.
- Tỷ lệ mang thai ở tuổi thiếu niên chiếm 11% tỷ lệ sinh tại Hoa Kỳ.
- Trong số các “mẹ nhí,” 57% tử vong khi sinh con. Tỷ lệ 14% tử vong khi sinh non.
- Gần 1/3 số “mẹ nhí” chọn biện pháp phá thai. Trong số các “mẹ nhí,” 29% quyết định phá thai.
- Thiếu niên da đen có tỷ lệ “mẹ nhí” cao nhất. Trong số thiếu niên ở độ tuổi 15-19, thiếu niên da đen có thể mang thai cao nhất (134 trong 1.000 em). Tỷ lệ mang thai thấp hơn ở thiếu niên Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (131 trong 1.000 em), tỷ lệ thấp nhất ở thiếu niên da trắng (48 trong 1.000 em).
- Thiếu niên mang thai ít có thể học đại học. Ngày nay, dù các “mẹ nhí” vẫn có thể học xong trung học hoặc học lên cao hơn, các “mẹ nhí” vẫn ít có thể vào đại học hơn các thiếu niên bình thường khác.
- Tỷ lệ “mẹ nhí” ở Hoa Kỳ cao hơn ở các nước phát triển khác. Tỷ lệ này ở Hoa Kỳ cao gấp đôi so với ở Anh và Wales hoặc Canada, và gấp 8 lần so với ở Hà Lan và Nhật.
- Tỷ lệ “mẹ nhí” giảm trong những năm 1991 và 2005, nhưng lại tăng sau đó. Tỷ lệ “mẹ nhí” luôn cao vào năm 1990 với 116,9 phần ngàn và tỷ lệ sinh luôn cao là 61,8 phần ngàn vào năm 1991. Năm 2002, tỷ lệ “mẹ nhí” giảm còn 75,4 phần ngàn – giảm 36%. Tuy nhiên, theo tường trình năm 2007 của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật (Centers for Disease Control) cho thấy tỷ lệ mang thai ở tuổi thiếu niên lại tăng 3% từ năm 2005 tới 2006.
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ WomensIssues.about.com)