Home / Chia Sẻ / Trường Ca LÒNG THƯƠNG XÓT

Trường Ca LÒNG THƯƠNG XÓT

Tam Nhật Thánh là đỉnh cao của Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Đó là trung tâm điểm của đức tin: Sự Chết và Sự Phục Sinh của Đức Giêsu Kitô. Tuần Thánh có nhiều màu sắc biểu trưng cho các cảm xúc của con người: vui – buồn, sướng – khổ, cười – khóc, sinh – tử,…

Cuộc đời là thế, đầy đủ thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Với sức con người thì chỉ “bó tay” (khoanh tay) mặc dù không hề muốn thúc thủ. Thế mới biết con người hữu hạn, chẳng là gì cả. Do đó, LCTX càng cần thiết hơn bao giờ hết, để trở thành cứu cánh cho tội nhân chúng ta: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài – Jezu ufam Tobie – Jesus, I trust in You – Jésus, j’ai confiance en Toi”.

  1. hTRƯỜNG CA YÊU THƯƠNG

Có lẽ nhiều người còn nhớ truyện “Những Con Chim Ẩn Mình Chờ Chết” (còn tên bản dịch Việt ngữ khác là “Tiếng Chim Hót Trong Bụi Mận Gai”), nguyên tác Anh ngữ là “The Thorn Birds” (1977) của nhà văn Colleen Mc Cullough (Úc), và truyện của bà đã được chuyển thể thành phim.

Ở đây tôi không muốn nói đến cốt truyện hoặc những gì liên quan đến “The Thorn Birds” mà chỉ muốn nói đến một loài chim kỳ lạ. Truyền thuyết kể có loài chim chỉ hót một lần trong đời rồi chết, tiếng hót của nó hay hơn tất cả bất kỳ loài chim nào khác. Loài chim này bắt đầu biết bay là nó đi tìm những cây có gai nhọn để làm tổ. Một ngày nào đó, nó bay lao mạnh vào gai nhọn nhất cho gai xuyên qua ngực, và nó hót vang chỉ một lần trước khi chết. Vâng, loài chim đó hoàn toàn chết vì yêu, vui vì được chết cho tình yêu!

Đó là tiếng hót nồng nàn của ngôn ngữ yêu thương, là một dạng “thú đau thương” mang tính thần bí mà nếu không yêu thì không thể hiểu nổi. Chính Đức Kitô là con người thần bí như vậy, có thể mượn hình ảnh loài chim kia để nói về Ngài vậy. Cả cuộc đời ngắn ngủi của Ngài tại thế là một chuỗi dài tha thứ và là một “liên khúc yêu thương” bất tận. Đại văn hào Victor Hugo có cách so sánh và xác quyết: “Ai chết cho tình yêu là sống trong tình yêu”. Tình yêu thương luôn kỳ diệu và khó hiểu!

Trong trình thuật Ga 13:1-20 kể lại việc Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ trong đêm Thứ Năm Tuần Thánh, trước khi Ngài đi chịu chết. Ngài làm thật chứ không nói suông! Thấy Chúa Giêsu đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau, thánh Phêrô ngạc nhiên và không dám tin vào mắt mình nên mới hỏi: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”. Đức Giêsu trả lời: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu”. Ông Phêrô lại thưa: “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!”. Đức Giêsu nói: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Nghe vậy, ông Phêrô nói ngay: “Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa”. Chắc là lúc đó Chúa nhìn ông Phêrô mà thương lắm, chắc cũng vừa cười vừa gật gật cái đầu nữa.

Rửa chân cho các ông xong, Chúa Giêsu mặc áo, về chỗ, và kết luận: “Nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em. Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em!” (Ga 13:14-17).

Một con người được tôn xưng là Chúa, là Thầy, vậy mà lại hạ mình xuống làm công việc của một tôi tớ. Chúa Giêsu đã thực hiện những điều Ngài nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28). Yêu thương và tha thứ luôn có hệ lụy với nhau. Cựu ước dạy: “Răng đền răng, mắt đền mắt, tay đền tay, chân đền chân, chỗ gãy đền chỗ gãy, mạng đền mạng” (x. Xh 21:4; Lv 24:20; Đnl 19:21). Nhưng Chúa Giêsu dạy: “Một ngày tha bảy lần” (x. Lc 17:4), và “Tha bảy mươi lần bảy” (x. Mt 18:22). Làm sao hiểu ngay và hiểu hết vì Chúa Giêsu luôn có những động thái “không giống ai” và quá đỗi ngược đời: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23:11-12).

Cũng ngay đêm đó, sau khi rửa chân, Chúa Giêsu lại thiết lập Bí tích Thánh Thể để có thể ở lại với con người mãi mãi, như Ngài đã hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28:20). Chắc hẳn không còn cách nào tuyệt vời hơn, vì Ngài nuôi sống chúng ta bằng chính Máu Thịt mình. Và đó cũng chỉ vì quá yêu chúng ta, dù chúng ta là tội nhân. Bản chất tình yêu là CHO nhiều hơn NHẬN, không muốn xa người mình yêu một giây phút nào.

Thiên Chúa yêu thương con người quá nhiều nên tha thứ cho chúng ta tất cả nhưng chúng ta lại làm ngơ, cứ nghĩ đó là “điều tất yếu”, Chúa có trách nhiệm phải làm vậy với mình. Do đó mà chúng ta khó tha thứ, thậm chí là không tha thứ cho nhau, dù chỉ là điều nhỏ mọn. Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta quá nhiều, vậy sao chúng ta không thể tha thứ cho nhau? Nếu như thế, chúng ta là “người đầy tớ không biết tha thứ” (x. Mt 18:23-35).

Trong cuốn “Healing the Original Wound” (Chữa Lành Vết Thương Nguyên Thủy) có câu: “Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, luôn tìm cách đến với những người lầm đường lạc lối và bị bỏ rơi”. Vì yêu thương mà Ngài tha thứ, và vì tha thứ mà Ngài càng yêu thương. Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết, mà lại chết nhục nhã trên Thập giá – loại hình phạt nhục nhã nhất thời đó. Đó là “vòng luẩn quẩn bác ái” không dễ hiểu hết ngay được nếu không có thời gian và cảm nghiệm nhờ hồng ân Thiên Chúa. Thánh Phaolô xác định: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8).

Mỗi giây phút qua đi là mỗi bước con người xa dần sự sống để tiến gần sự chết. Trong con người luôn có sự giằng co giữa cái Thiện và cái Ác, mà Ánh sáng và Bóng tối luôn đối nghịch nhau, có cái này thì không có cái kia. Trong cuốn “Weaving Faith and Experience” (Đan Kết Đức Tin và Cảm Nghiệm) có câu này: “Thành công và thất bại hằng ngày có thể là những lời mời gọi chúng ta kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa, nếu chúng ta biết cách nhìn”. Vấn đề là con người có nhận ra Ý Chúa hay không.

Thế thái nhân tình luôn nhiêu khê và xảy ra hàng ngày, Đức Kitô cũng đã trải nghiệm điều đó: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18). Nhưng đôi khi con người cầu nguyện mà như ra lệnh cho Chúa, cứ nghĩ xin là phải được, không được thì “good-bye” ngay. Con người quá yếu đuối nên dễ nản chí sờn lòng. Trong cuốn “God, Help Me” (Lạy Chúa, Xin Phù Trợ Con) có câu: “Ngay khi chúng ta cố gắng cầu nguyện mà Thiên Chúa có vẻ vẫn không xuất hiện thì cũng đừng ngưng cầu nguyện”. Chúa biết mỗi người thế nào nên Chúa không cần thử thách, Chúa chỉ muốn con người ý thức mà tìm về với Ngài, và Ngài cũng muốn con người tự lập công thôi.

Trường Ca Yêu Thương là bản tình ca dài, với nhiều đoạn mang những màu sắc khác nhau, và ai cũng phải thực hành để trở thành một nốt trong bài trường ca đó, dù là nốt trầm hay bổng, dài hay ngắn, nhưng nốt đó vẫn có một vị trí nhất định không thể thiếu trong bản tổng phổ vậy. Cũng vậy, mỗi người chỉ là một giọt nước nhỏ, nhưng nhiều giọt nước nhỏ mới có thể tạo nên một đại dương mênh mông.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con luôn sẵn sàng biết yêu thương trọn vẹn và vô điều kiện. Vâng, “xin hãy nói, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe” (1 Sm 3:10). “Xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17:5), vì “không có Ngài thì chúng con không làm được gì” (Ga 15:5). Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TruongCa LTX2. TRƯỜNG CA ĐAU KHỔ

Chắc hẳn không có đồng tiền nào trên thế giới lại “đặc biệt” như đồng đô-la Mỹ, “đặc biệt” không chỉ là tỷ giá đồng tiền đứng hàng thứ ba (sau đồng Bảng Anh và Euro) trên thế giới, mà đặc biệt vì trên đồng đô-la Mỹ có ghi câu: In God we trust (Chúng ta tin vào Thượng Đế, chúng tôi tín thác vào Thiên Chúa, chúng con tin Chúa), cũng tương tự câu: Jesus, I trust in You (Lạy Chúa Giêsu, con tin Ngài; lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài) mà ngày nay rất phổ biến trong việc sùng kính Lòng Chúa Thương Xót.

Cả đời Chúa Giêsu thực hành yêu thương và dạy người ta yêu thương, vì Ngài mệnh danh là Tình Yêu (x. 1 Ga 4:8 & 16). Ngài gọi “luật yêu thương” là điều răn mới: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13:34).

Chia tay luôn là điều buồn, thậm chí là rất đau khổ. Ai trong chúng ta cũng đã từng hơn một lần phải chia tay: Xa cha mẹ, xa con cái, xa người thân, xa người yêu, xa bạn thân, và nhất là bị phụ tình. Nhưng xa như vậy vẫn có thể còn gặp lại, có bị phụ tình thì vẫn có dịp gặp tình mới. Xa mà không thể gặp lại được chính là cái chết, lúc đó chúng ta còn đau khổ hơn rất nhiều. Ai đã từng mất cha mẹ, anh chị em, đặc biệt là mất mẹ, thì sẽ cảm thấy khoảng trống vô hạn tưởng chừng không gì khỏa lấp nổi. Những lúc đó trái tim nhói đau lắm. Tuy nhiên, vẫn không “nhằm nhò” gì so với nỗi đau của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu Kitô biết mình sắp phải xa những người thân thiết mà Ngài yêu thương hết lòng, đó là chúng ta. Có bản tính nhân loại, Ngài cũng xúc động 2 lần khi thấy người ta thương tiếc Ladarô (x. Ga 11:3 & 38), có lúc Ngài rất đau buồn, đau buồn đến nỗi Ngài đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mt 26:38). Vâng, nỗi đau quá lớn! Và Ngài không muốn xa rời chúng ta một giây phút nào nên Ngài đã thiết lập Bí tích Thánh Thể (x. Mt 26:26-29; Mc 14:22-25; Lc 22:19-20; 1 Cr 11:23-25), chính là Bí tích Yêu Thương, để có thể ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28, 20). Chưa xa mà Chúa đã rất nhớ các môn đệ, Chúa đã trút bầu tâm sự lần cuối bằng giọng buồn bã: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26:29).

Với người đời thì “xa mặt cách lòng”. Chúa biết rõ nên Ngài “không dám” xa chúng ta, Ngài vẫn ở bên chúng ta, vậy mà thoáng một cái thì chúng ta lại quên Ngài. Quá tệ! Chúng ta có thể dễ “chê” ông Phêrô, ở bên Chúa hằng ngày mà vẫn… nhát đảm, chưa đánh đã khai! Với bản tính chất phác, thật thà, có sao nói vậy, và lại nóng tính hơn cả Trương Phi, chẳng thế mà khi thấy Thầy bị bắt, ông liền vung tay tuốt gươm ra, chém phải tên đầy tớ của thượng tế làm nó đứt tai (x. Mt 26:51), nên ông hùng hồn quả quyết chắc như đinh đóng cột: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26:33). Ông còn tái khẳng định: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26:35). Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Ấy thế mà chỉ là mấy đầy tớ gái trong đêm tối chợt nhận ra ông trong số người đi theo Chúa Giêsu thì ông đã giật thót người và “vô tư” chối Chúa đến 3 lần (x. Mt 26:69-75). Nếu là chúng ta chắc là còn tệ hơn, “giả nai” và bỏ của chạy lấy người thôi!

Thánh Phêrô “đại diện” cho chúng ta trong việc… chối Chúa. Chúa bị phụ tình. Tất nhiên Ngài đau lắm, Ngài đau không chỉ một lần mà đau hàng tỷ lần vì nhân loại hằng ngày phụ tình Ngài. Khi bằng an thì Thầy Thầy, con con – hy vọng có thể được hưởng “ké” gì đó; khi Thầy bị bắt thì trò chạy mất dép, chối leo lẻo – vì quá thất vọng, bị vỡ mộng, không còn “xơ múi” gì, vậy là… hết!.

Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Chúa Giêsu đã toát mồ hôi hột vì quá run sợ và quá đau khổ nên Ngài đã phải hai lần thốt lên: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26:39), và “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26:42). Nhưng Ngài chấp nhận vì tuân phục, vui nhận chứ không miễn cưỡng, không phải là không nhận cũng không được.

Nỗi đau này tiếp nỗi đau khác. Không chỉ bị phụ tình mà Ngài còn bị lợi dụng khi Giuđa nhân danh điều tốt để làm điều xấu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!” (Mt 26:48). Nụ hôn là biểu hiện yêu thương mà lại bị biến thành dụng cụ phản trắc. Chúa Giêsu đã biết trước: “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Ga 13:18). Ăn cháo đá bát, lật lọng. Buồn vô hạn! Và một lần nữa, Ngài lại bị đau khổ đến tột cùng! Chúng ta đừng vội trách ông Giuđa vì chúng ta cũng đã, đang và sẽ lợi dụng lòng nhân hậu của Chúa, dám nhân danh lòng đạo đức mà cứ tưởng mình vì Chúa, và dám nhân danh lòng tốt mà làm tổn hại người khác bằng nhiều cách.

Sau khi họ bắt trói Chúa đi, họ hành hạ và sỉ nhục Chúa Giêsu đủ cách, họ còn khạc nhổ vào mặt Ngài và đấm đánh Ngài. Có kẻ lại tát Ngài và nói: “Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: Ai đánh ông đó?” (Mt 26:67-68). Nếu có ở đó, chắc hẳn chúng ta cũng phải “nóng gáy” mà lầm bầm theo kiểu nói ngày nay: “Đồ đểu!”.

Tột đỉnh đau khổ, tột đỉnh nhục nhã, tột đỉnh cô đơn, vì Chúa Giêsu không còn ai dám nhận mình là người quen, có người chỉ dám đứng xa xa xem sao. Thế nên Chúa Giêsu lại thốt lên: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni – Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? (Mt 27:45). Máu ra nhiều, Ngài kêu khát thì người ta lại nỡ lòng cho Ngài nếm giấm chua (x. Ga 19:28-29). Và thế là kết thúc bản hùng ca Liên Khúc Khổ Đau, thế là hoàn tất!

Lòng Thương Xót Chúa quá kỳ lạ, quá cao vời, quá mầu nhiệm. Ước gì mỗi người chúng ta khả dĩ cảm nhận Tình Yêu ấy như Chân phước Lm Ludovico Casoria: “Tình yêu Chúa Kitô đã chạm đến trái tim tôi” (Christ’s love has wounded my heart).

Người ta thường nói: “Yêu là khổ, không yêu thì lỗ, thà chịu khổ hơn chịu lỗ”. Nhưng đó chỉ là nói… cho vui. Thực tế có nhiều người “bị lỗ” liền tìm cách hại người không yêu mình, thậm chí là giết chết người đó. Còn với Chúa thì không đùa giỡn, rất thật: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9:23). Thánh Phaolô kinh nghiệm đầy mình: “Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1:24). Yêu là phải khổ, như một quy luật tất yếu muôn thuở, không thể nói suông, bởi vì “nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta” (Rm 6:8).

Chắc hẳn nhiều người còn nhớ các vĩ nhân là chính trị gia Mohandas Karamchand Gandhi và mục sư Martin Luther King.

Mohandas Karamchand Gandhi (2.10.1869 – 30.1.1948) được dân Ấn Độ tôn vinh là thánh nhân, là người cha của dân tộc, vì ông đã hết lòng vì nhân dân đến nỗi thân xác ông ốm o gầy mòn. Lúc 15 tuổi, ông thiếu tiền nên ăn cắp chiếc đồng hồ vàng của người cha. Lương tâm ông không ngừng bị day dứt, nhưng ông không dám nói thẳng với cha mà viết vào giấy rồi đưa cho cha. Ông đứng run lẩy bẩy chờ hình phạt. Người cha xem giấy xong liền xé nát, rồi nói: “Thôi được, dù sao con cũng biết nhận lỗi”. Sau đó, người cha ôm hôn đứa con thắm thiết.

Ông là người giải hòa giữa người Hindu và Hồi giáo. Phương pháp hành động của ông là khuyến khích, phi bạo lực chân thật – gọi là Satyagraha. Ông bị bắt nhiều lần ở Anh và Nam Phi vì hoạt động chính trị, giành độc lập cho Ấn Độ năm 1947. Nhưng ngày 30.1.1948, một người Hindu cuồng tín là Nathuram Godse đã đâm ông 3 nhát dao oan nghiệt khiến ông gục ngã. Trước khi chết, ông còn thốt lên: “Chúa ơi! Chúa ơi!” và xin tha thứ cho người sát hại mình. Ông thật xứng đáng được người dân Ấn Độ tôn xưng là “Mahatma” (Tâm hồn Vĩ đại).

Martin Luther King (sinh 15-1-1929, mất 4-4-1968), người Mỹ da đen, đoạt giải Nobel Hòa bình năm 1964, khi ông mới 35 tuổi. Năm 1957, ông thành lập tổ chức Southern Christian Leadership Conference (Hội nghị Lãnh đạo Kitô giáo Nam phương), lý tưởng của tổ chức này ông rút ra từ Kitô giáo, cách hoạt động được áp dụng theo kiểu của Gandhi.

Trong những năm hoạt động từ 1957–1968, ông đi nhiều nơi và viết nhiều sách báo để bảo vệ công lý. Ông hướng dẫn 250.000 người biểu tình ở Washington, D.C., và hô to khẩu hiệu: “Tôi có Mơ ước” (I Have a Dream). Ông hoạt động chống kỳ thị chủng tộc nên bị bắt 20 lần và bị tấn công 4 lần, được tạp chí Time bình chọn là Nhân vật của năm 1963. Ông không chỉ là biểu tượng lãnh đạo của người Mỹ da đen mà còn là nhân vật của thế giới. Ông bị ám sát ngày 4-4-1968 tại phòng khách sạn ở Memphis, Tennessee, còn nhà ông bị bỏ bom.

Thánh LM Maximilien Kolbe đã bằng lòng chết thay cho một người bạn tử tù, Thánh GH Gioan-Phaolô II đã đích thân đến tận nhà tù để tha thứ cho chính kẻ đã ám sát ngài. Và còn nhiều những tâm hồn cao thượng chứa đầy tình yêu thương như vậy. Đó là những chứng nhân của Lòng Thương Xót Chúa – hôm qua, hôm nay, và mãi mãi…

Những con người như vậy đều có lý tưởng sống cao, đồng thời cũng có lòng yêu thương kỳ lạ, dám sống “khác người”, nhưng Đức Kitô còn “khác người” hơn nhiều – như trong ba dụ ngôn điển hình về Lòng Thương Xót: con chiên bị lạc (Ga 15:4-7), đồng bạc bị mất (Ga 15:8-10), người cha nhân hậu (Ga 15:11-31). Họ dám xả thân cho người-mình-yêu vì họ khao khát yêu thương cháy bỏng. Họ không chỉ vĩ đại mà thực sự là thánh nhân vậy. Chính Chúa Giêsu đã xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).

Bản Trường ca Đau khổ không được Chúa Giêsu nói rõ nhưng Ngài có cách nói khác: “Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6:34). Điều đó có nghĩa là chẳng bao giờ hết đau khổ, và như vậy còn hơn là bản trường ca nữa! Và mỗi chúng ta cũng phải là một nốt nhạc nhỏ trong bản trường ca đó để cùng hòa âm với “nốt khổ” chủ yếu chính là Đức Giêsu Kitô.

Lạy Thiên Chúa là Vua các vua nhưng dịu hiền, là Thẩm phán tối cao công minh nhưng nhân hậu, là người Cha yêu thương vô cùng, chúng con thật bất xứng. Vạn lạy Ngài, xin xót thương và tha thứ, “chúng con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15:18-19). Nhưng chúng con vững tin vào Tình Chúa bao la và luôn tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Từ nay, “xin tạo cho chúng con tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho chúng con nên chung thuỷ và ban lại cho chúng con niềm vui được Ngài cứu độ” (Tv 51:12 & 14).

Vì Cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu, vì Bửu Huyết của Chúa Giêsu, và vì Châu Lệ của Thánh Mẫu Maria, xin Chúa cứu độ các linh hồn và cả thế giới. Chúng con muốn trở thành lưỡi đòng đâm thấu Thánh Tâm Chúa để được ở trong đó mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Tam Nhật Thánh Năm Thánh Lòng Thương Xót – 2016

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …