LÊN ĐỈNH HIỂN VINH QUA ĐƯỜNG THẬP GIÁ
DỌC ĐỜI ĐAU KHỔ CÓ CHUỖI HỒNG ÂN
Thật kỳ lạ, có những “cặp đôi” đối nghịch nhưng lại không thể rời nhau – hạnh phúc và hy sinh, quang vinh và đau khổ, nhàn hạ và cực nhọc, vất vả và sung sướng,… Thi sĩ ngụ ngôn Jean de La Fontaine (1621-1695, Pháp) nhận định: “Không có con đường nào dẫn tới vinh quang lại trải đầy hoa”. Còn nhà lãnh đạo tinh thần Mahatma Gandhi (1869-1948, Ấn Độ) xác định: “Vinh quang nằm trong nỗ lực chứ không phải kết quả, nỗ lực hết mình là thắng lợi hoàn toàn”.
Chính Chúa Giêsu đã chịu chết rồi mới phục sinh, chắc chắn chẳng ai lại không đi qua con đường thập giá – loại độc đạo dẫn tới vinh quang Nước Trời. Biết con người yếu đuối, Chúa Giêsu đã củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín (Phêrô, Giacôbê và Gioan) bằng cách cho họ được “nếm thử” vinh quang Nước Trời:chứng kiến Thầy biến hình sáng láng khi đàm đạo với ông Êlia và ông Môsê trên Núi Tabor (còn gọi là Núi Biến Hình – Har Tavor, Itabyrium, Jebel et-Tur. Núi này tọa lạc tại miệt dưới Ga-li-lê, Ít-ra-en, thuộc phía Đông thung lũng Jezreel, cách Biển Ga-li-lê khoảng 18 km về phía Tây). Ba môn đệ thân tín đã được sống những giây phút tuyệt vời nhất, đó là lúc được lên tột đỉnh của niềm hạnh phúc mà thế gian không thể có.
Trong số các thánh, có một số vị được thị kiếnvề những mặc khải khác nhau: Thánh Teresa Avila (1515-1582) được mặc khải về hỏa ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque (1647-1690) được mặc khải về Thánh Tâm Chúa Giêsu, Chân phước Anne Catherine Emmerich (1774-1824) được mặc khải về Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) được mặc khải về hỏa ngục và các thị kiến khác, đồng thời có nhiệm vụ loan báo Sứ điệp Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, Thánh Piô (1887-1968) được ghi Năm Dấu và thường xuyên trò chuyện với Thiên Thần Bản Mệnh,…
Thời nào cũng có những thị nhân liên quan một sứ mệnh quan trọng nào đó. Thời Cựu Ước đã có một số người được thị kiến. Cụ thể là Ngôn sứ Đanien kể lại giấc mộng: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Toà bắt đầu xử, sổ sách được mở ra” (Ðn 7:9-10). Đó là quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân biệt chiên với dê, tách lúa khỏi cỏ lùng, tách cá tốt khỏi cá xấu. Đó là Giờ Công Lý, vì Giờ Thương Xót đã hết –lúc Thẩm Phán Tối Cao xét xử mọi người,rạch ròi những người đáng thưởng công hoặc đángbị phạt vĩnh viễn. Chấm hết. Không còn thay đổi được gì nữa!
Trong lần thị kiến đó, Ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Ðn 7:13-14). Những lời mô tả rất rõ ràng, cho thấy những hình ảnh chính xác và kỳ lạ. Nhưng đó là sự thật chứ không là chuyện vui đùa hoặc hù dọa, cũng chẳng là huyền thoại, cổ tích, hoặc ngụ ngôn. Hoàn toàn là sự thật minh nhiên.
Đúng như vậy, Thánh Vịnh gia đã động viên và tiên báo từ ngàn xưa: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người” (Tv 97:1-2, 5-6). Phàm nhân không thể chịu nổi nếu nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa. Khi đến gần bụi gai cháy, ông Môsê đã phải che mặt vì sợ “giáp mặt” Thiên Chúa (Xh 3:1-6). Rồi khi ông Môsê đem Thập Giới từ trên núi Sinai xuống, dân còn không thể nhìn mặt ông vì mặt ông sáng chói quá (Xh 34:29-35), chứ nói gì tới Nhan Thánh Chúa.
Tất cả mọi loài và mọi vật đều phải tâm phục khẩu phục. Tại sao vậy? Đây là lý do đơn giản mà chính xác: “Chính bởi vì Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy” (Tv 97:9). Duy chỉ mình Ngài là Thiên Chúa, không có bất cứ thần linh nào khác, nếu có thì họ cũng chỉ là thụ tạo của Thiên Chúa mà thôi.
Là người cùng thời và đích thân đã “thực mục sở thị” chính Thầy Giêsu,cùng với kinh nghiệm đầy mình qua những tháng năm theo Thầy Giêsu rong ruổi khắp nơi, Thánh Phêrô làm chứng: “Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người” (2 Pr 1:16). Và rồi vị giáo hoàng tiên khởi cho biết thêm: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến” (2 Pr 1:17-18). Đó là lời chứng của nhân chứng sống, chắc chắn không thể không chính xác.
Để kết luận, Thánh Phêrô xác định: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em” (2 Pr 1:19). Người ta bảo rằng “bảy mươi phải học bảy mốt”, chúng ta chỉ là hậu duệ xa lắc xa lơ, không thể dám dại đột mà làm ngơ những lời chứng thực sống động như vậy.
Chắc chắn tin là điều không dễ thực hiện trong một sớm một chiều – nghĩa là khó lắm, thế nên Chúa Giêsu mới khuyến khích: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Rất dễ lầm tưởng giữa tin tưởng vàảo tưởng, thế nên phải có được khả năng phân định rạch ròi. Có những thứ được tận mắt thấy tỏ tường mà đôi khi chúng ta vẫn không tin, hoặc cứ bán tín bán nghi. Thực sự khó lắm! Tuy nhiên, đức tin vẫn cần có lý trí, nếu không sẽ dễ bị cuồng tín, mà cuồng tín là dạng phi tôn giáo. Tác giả sách “Gương Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên thường có thể làm sai, duy chỉ có ĐỨC TIN CHÂN CHÍNH mới hoàn toàn không sai lầm”. Đức tin rất quan trọng, nhưng phải là “đức tin chân chính” chứ không thể là dạng tương tự hoặc dạng gì khác.
Dĩ nhiên chúng ta chỉ là “kẻ bình thường nhất trong những người bình thường”, không có diễm phúc được thị kiến như các thánh, nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách “thị kiến” khác – chẳng hạn, nhìn vào thiên nhiên hoặc các biến cố của cuộc đời. Thật vậy, đa số các thánh cũng chỉ “thị kiến” bằng đức tin giữa đời thường như chúng ta vậy thôi, nhưng với mức độ khác thường: tin mãnh liệt.
Trước đó không lâu, chỉ một tuần lễ, Chúa Giêsu cho biết rằng Ngài “PHẢI đi Giêrusalem, PHẢI chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết CHẾT, và ngày thứ ba sẽ SỐNG LẠI” (Mt 16:21). Nghe Thầy nói vậy, các môn đệ chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Bao năm gắn bó với Thầy, đồng lao cộng khổ với Sư Phụ, chấp nhận “nằm gai” với hy vọng được “nếm mật”, một lòng một dạ theo Thầy, bỏ ăn bỏ ngủ để lang thang khắp nơi với Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng được hưởng chút công lao – cụ thể là chức tước và bổng lộc. Chính Giacôbê và Gioan đã có lần hí hửng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ xin dùm]. Thế mà bây giờ Thầy lại bảo là sắp đi chịu chết! Ôi chao, lâu đài kỳ vọng chợt sụp đổ như bị động đất mạnh, mộng vàng tương lai chợt tan thành mây khói. Thế là công dã tràng. Trắng tay rồi. Thế là chấm hết. Buồn thật, vừa buồn vừa tiếc.
Sư Phụ Giêsu biết rõ các đệ tử đang “ấm ức” và hầu như tuyệt vọng, thế nên sau đó Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi, cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Ngài biết sức chịu đựng của con người có giới hạn. Các môn đệ cũng là những con người. Củng cố niềm tin cho họ. Nếu không mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên Chúa thật, có thể các ông sẽ rút lui không lời từ biệt, theo kiểu “bỏ của chạy lấy người” chăng? Biết đâu được!
Qua trình thuật Mc 9:1-9 (≈ Mt 17:1-8; Lc 9:28-36), chúng ta biết được rằng Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trên Núi Tabor trước mặt ba môn đệ thân tín. Trước khi cho họ nếm thử hạnh phúc đích thực, Đức Giêsu đã nói với họ: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực”.Có phải Ngài muốn ám chỉ chàng trai Gioan chăng? Không ai biết được việc của Chúa.
Và rồi sáu ngày sau, Ngài đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và rồi họ thấy có ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Thầy Giêsu.Ôi, lạ thật đấy! Thấy vậy, ông Phêrô liền thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Chỉ cần làm lều cho ba bề trên thôi, còn ba đệ tử thì sao cũng được, chỉ cần cứsung sướng thế này thôi. Ai “gặp” Chúa thì quênhết sự đời, cách sống cũngbiến đổi.
Theo Thánh Mác-cô,ông Phêrô không biết phải nói gì, vì cả ba ông đều kinh hoàng.Chắc hẳn ba ông vừa sợ, vừa lo, mà lại vừa khoái, vừa mừng.Cảm giác rất khó phân biệt. Có lẽ cũng tương tựkiểu mất trí vậy, chẳng nhớ gì ráo trọi. Đang hứng khởi, bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Thật là tiếc quá chừng. Giá mà…!
Cứ như theo cấp số cộng và cấp số nhân vậy, từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Cả ba ông đang lơ ngơ, chẳng hiểu gì, bỗng dưng lại có tiếng phát ratừ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Các ông chợt nhìn quanh thấy chẳng có ai, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Sao lạ lùng thế nhỉ? Bứt tóc, giật râu, nhéo tay, vẫn thấy đau. Vậy là không phải mơ. Sự thật trăm phần trăm đây mà, nhưng sao lạ quá chừng. Không thể hiểu nổi!
Nỗi buồn càng sâu thì niềm vui càng rộng, gian nan càng nhiều thì sung sướng càng tăng. Thất bại là bậc dẫn tới thành công. Hạnh phúc luôn diệu kỳ – dù nhiều hay ít, dù to hay nhỏ. Dọc đường từ trên núi xuống, đi bên Thầy màkhông ai dám hỏi điều gì. Chúa Giêsu cũng chẳng nói gì, nhưng Ngài truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
Đường lên Tabor sáng chói và hạnh phúc lâng lâng nhưng dẫn tới Can-vê mù mịt và đau khổ tang thương. Và từ đó sẽ dẫn tới tột đỉnh của niềm hạnh phúc tuyệt đối: Nước Trời.Nhưng trước tiên, ai cũng phải biến đổi theo Thánh Ý Chúa. Thật tuyệt vời với ý nguyện của Thánh Thérèse de Lisieux: “Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con đơn giản hóa cuộc sống bằng cách nhận biết Ngài muốn con là gì và trở nên con người đó”.
Lạy Thiên Chúanhân lành, chí thánh và vĩnh hằng, xin mở “tầm mắt đức tin”để con khả dĩ nhận biếtNgài qua thiên nhiên, qua các biến cố, qua tha nhân,… và xin giúp con thực sự nhận ra vinh quang Ngài trong vạn vật. Xin cho con biết ý Ngài và giúp con mau mắn thi hành. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU