Home / Chia Sẻ / TIẾP SỨC

TIẾP SỨC

TIẾP SỨCCái gì cũng có giới hạn, rồi cũng hư hỏng, không thể tồn tại mãi. Có những thứ mau hư, có những thứ lâu hư. Thực phẩm tươi sống phải được bảo quản mới có thể không mau hư hỏng. Những thứ mau hư hỏng lại tiếp sức đạt tới những gì lâu dài, bất diệt.

Tục ngữ nói: “Một miếng khi đói bằng một gói khi no.” Câu này càng thấy đúng trong thời gian dịch bệnh thế này. Người nghèo bao giờ cũng khổ – khổ đủ thứ, đủ kiểu, đủ mức, cả thể lý lẫn tinh thần. Đáng quan ngại là đói thể lý có thể dẫn tới đói tinh thần, lo sợ lắm: “Thân phận bồ câu, xin đừng trao cho thú dữ, đừng mãi mãi quên đi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài.” (Tv 74:19)

Vì nghèo khổ mà phải tha phương cầu thực, rồi vì dịch bệnh mà phải về quê. Thật xót xa khi thấy những người đi bộ về quê cả trăm cây số, có những người đi xe đạp hoặc xe máy về quê cả ngàn cây số. Không thể tưởng tượng nổi có hàng trăm, hàng ngàn người tháo chạy, cực khổ lắm nhưng không còn cách nào khác. Dọc đường có những người tiếp sức bằng thứ này, thứ nọ, kể cả tiền mặt. Thật ấm áp tình người!

Vì kiệt sức mà phải tiếp sức. Cái đói khát cấp bách lắm. Trình thuật 1 V 19:4-8 cho biết: Một mình ông Êlia đi một ngày đường trong sa mạc, rồi ông đến ngồi dưới gốc một cây Kim Tước. [1] Mệt mỏi vì đường xa và vì đói khát, có lẽ nản lòng nên ông cầu nguyện: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi, vì con chẳng hơn gì cha ông của con.” Nói rồi ông nằm dưới cây kim tước đó và thiếp đi, an tâm chờ… chết.

Bất ngờ, một thiên sứ đến đánh thức ông và bảo ông dậy mà ăn. Ông nhìn thấy ở phía đầu ông có một chiếc bánh nướng và một hũ nước. Ông ăn bánh, uống nước, rồi lại nằm xuống chờ chết. Thiên sứ của Đức Chúa trở lại lần nữa, đụng vào người ông và nói: “Dậy mà ăn, vì ngươi còn phải đi đường xa.” Ông lại dậy, ăn bánh và uống nước. Nhờ lương thực ấy bổ dưỡng, ông đi suốt bốn mươi ngày đêm tới Khô-rếp – tức là núi Sinai, núi của Thiên Chúa. Chỉ ăn uống như thế mà ông Êlia đủ sức đi ròng rã bốn mươi đêm ngày.

Điều đó không chỉ lạ lùng mà là kinh ngạc. Bánh thiên thần có khác. Bốn mươi là con số quen thuộc nhưng khá đặc biệt, được đề cập nhiều lần trong Kinh Thánh. [2] Bốn mươi cũng là khoảng thời gian kỳ lạ – dù là ngày, tháng, hoặc năm. Với con người, bốn mươi năm là độ tuổi trung niên, cần phải thực sự trưởng thành toàn diện tâm sinh lý.

Bánh thiên thần hoặc thần lương chỉ có thể là bánh do Thiên Chúa ban tặng. Ngài biến bánh thường hóa thành thần lương. Thần Lương nhắc nhớ tới Bánh Thiêng là Thánh Thể – Mình Máu Chúa Giêsu Kitô. Có Thần Lương nuôi dưỡng phần xác thì cũng có Thần Lương nuôi dưỡng phần hồn. Đã có những vị thánh chỉ sống nhờ Thánh Thể suốt vài chục năm.

Thánh Vịnh gia rất biết ơn vì được nuôi dưỡng cả xác hồn: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi.” (Tv 34:2) Không chỉ vậy, Thánh Vịnh gia còn phải lên tiếng xác nhận và chia sẻ chân thành: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.” (Tv 34:3-4) Thánh Vịnh 34 là một Thánh Vịnh “đẹp” về cả ngôn từ và ý nghĩa.

Thật vậy, Thánh Vịnh này khiến người ta cảm thấy ấm lòng. Chứng cớ được viện dẫn và lý giải rạch ròi: “Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người.” (Tv 34:5-8) Ước gì mỗi chúng ta cũng khả dĩ cảm nghiệm ân tình của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, và luôn biết nhắn nhủ lẫn nhau: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9)

Không thể không hành động khi cảm nhận được điều tốt lành. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Anh em chớ làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc. Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác.” (Ep 4:30-31) Cái “tôi” là cái tồi tệ, nó luôn muốn vùng lên bất cứ lúc nào, vì cứ tưởng mình là “số dzách” (số một, đệ nhất, number one) Có biết yêu mình thì mới biết yêu người khác, nhưng yêu mình quá hóa tự ái, tự ái dẫn tới ích kỷ, ích kỷ dẫn tới bất chính, đúng như cổ nhân nói: “Tâm phẫn xí tắc bất đắc kỳ chính.”

Ngày xưa, Saolô hung hăng, hiếu chiến, háo thắng, tự cho mình “ngon lành” nên tìm mọi cách chống lại danh Đức Giêsu. Ông đã từng giận dữ mà rảo khắp các hội đường, cưỡng bức người ta phải nói lộng ngôn, sang cả nước ngoài mà bắt bớ những người tin theo Đức Kitô, (x. Cv 26:11) nhưng chính ông đã khốn khổ vì “châu chấu mà muốn đá voi” và dám “giơ chân đạp vào mũi nhọn.” (Cv 26:14) Tội to lắm, nặng lắm, nhưng Thiên Chúa đã “triệt buộc” ông. Và rồi một Saolô ngang ngược đã biến thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô.

Với kinh nghiệm “xương máu” như vậy, Thánh Phaolô chia sẻ: “Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn.” (Ep 4:26) Không làm điều xấu vẫn là tiêu cực, cũng chưa xong bổn phận, mà còn phải tích cực làm điều tốt, nghĩa là “phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, NHƯ Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta trong Đức Kitô.” (Ep 4:32)

Bác ái cần lắm, vì hạnh phúc là biết yêu và được yêu. Thánh Phaolô kết luận: “Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt.” (Ep 5:1-2) Bác ái là đức ái, một trong ba nhân đức đối thần, cần thiết cho cả đời này và đời sau. Đó là một loại lương thực nuôi dưỡng tinh thần mà ai cũng cần sử dụng để khả dĩ duy trì sự sống tâm linh.

Bánh vật chất đời thường mau hư, cần cho sự sống thân xác, gợi nhớ tới bánh tinh thần bất hoại, cần cho sự sống thiêng liêng, và còn cần hơn nữa là Bánh Thánh – loại Bánh Trường Sinh chỉ có được từ Đức Giêsu Kitô. Đó chính là Mình Máu Ngài, Thần Lương tiếp sức cho chúng ta suốt cuộc lữ hành trần gian.

Thánh Gioan cho chúng ta biết “đặc sản” duy nhất là Bánh Trường Sinh này qua trình thuật Ga 6:41-52.

Sau khi nghe Chúa Giêsu nói chính Ngài là Bánh Trường Sinh, người Do Thái cảm thấy “chói tai” và xầm xì phản đối, bởi vì Ngài đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Chắc chắn rằng, từ cổ chí kim, cả hiện tại và tương lai, hoặc bất cứ dân tộc nào, không ai dám nói như vậy, và cũng chẳng ai dám tự xưng là Thiên Chúa. Quả thất, rất “khó lọt lỗ tai” vì chúng ta chỉ là phàm nhân, không thể hiểu nổi những gì cao hơn vầng trán bé nhỏ của mình. Nhưng điều Chúa Giêsu nói hoàn toàn là sự thật.

Lúc đó, người Do Thái đặt vấn đề với nhau: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” Ngày nay chúng ta không còn tranh luận về “sự lạ” Thánh Thể vì chúng ta đã thừa kế di sản đức tin tông truyền, nếu chúng ta sống thời đó và lần đầu nghe Chúa Giêsu nói vậy, chắc chắn chúng ta không chỉ nổi da gà, nổi gai óc, mà còn nổi nóng như ngọn lửa bùng cháy. Tuy nhiên, dù đã hơn hai ngàn năm qua, những người vô thần hoặc theo tôn giáo khác, kể cả một số hệ phái thuộc Kitô giáo, người ta vẫn không chấp nhận Bí tích Thánh Thể, cho rằng người Công giáo chỉ ảo tưởng. Sự thật mãi là sự thật, dù người ta không tin sự thật là sự thật thì sự thật cũng không thể biến thành điều gì khác.

Biết rõ người Do Thái đang lùng bùng lỗ tai và máu đang bốc lên tới chỏm đầu, Chúa Giêsu nói: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết.” Hết cú sốc này tới cú sốc khác, chắc là họ muốn điên lên được. Thế nhưng Chúa Giêsu không thể chuyển hướng khác, và Ngài dẫn chứng: “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha.” Như vịt nghe sấm, không hiểu gì, cứ nghe ông Giêsu nói kiểu này thì họ điên mất thôi!

Ai điên thì điên. Mặc kệ. Sự thật không thể khác. Chúa Giêsu “sang số” và “tăng ga” tiến tới: “Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.” (Ga 6:51) Nghe những lời này, người Do Thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ tức giận lắm, nhất là mấy “ông lớn” – mặt to, tai to, miệng to, quyền to, chức to – thế nhưng họ vẫn không thể làm gì được Ngài.

Có lẽ hôm đó xảy ra ẩu đả vì ai cũng cho mình là đúng. Một số người rút lui mặc dù đã đi theo Ngài một thời gian. Không hiểu thì không tin, không tin thì không thích, không thích thì không thể theo. Lẽ thường là như thế.

Đối với người Do Thái, cả chính quyền và các vị lãnh đạo tôn giáo, Chúa Giêsu là “cái gai nhọn” cần phải nhổ, càng sớm càng tốt. Vì thế, họ luôn tìm mọi cách bắt bẻ, gài bẫy, để có cớ bắt giết Ngài, nhưng giờ của Ngài chưa đến thì không ai có thể làm gì được.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin gia tăng các đức đối thần và đối nhân, xin ban Thần Khí Ngài để chúng con có thể hiểu đúng những điều siêu nhiên, xin ban cho chúng con lương thực cần thiết cho xác hồn để chúng con đủ sức vượt qua mọi chướng vật trong cuộc lữ hành và được đến Cõi Trường Sinh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

[1] Cây Kim Tước thuộc họ đậu, hoa màu vàng ươm, nở vào mùa Xuân, còn gọi là “Cây Hoa Chuỗi Vàng” – Golden Chain Flowers. Tất cả các bộ phận của cây kim tước đều độc, có thể gây tử vong. Tuy nhiên, cây cũng được dùng để làm giảm nhịp tim và kích thích lợi tiểu.

[2] Số 40 được đề cập trong một số câu Kinh Thánh:

  1. Sau 40 ngày lụt Đại Hồng Thủy, (St 7:17) có nhân loại mới, tượng trưng bằng gia đình ông Nôê.
  2. Khi 40 tuổi, ông Môsê đã đến thăm dân đang sống kiếp nô lệ ở Ai Cập; (Cv 7:23) sau 40 năm ở tại Mađian, ông được Thiên Chúa kêu gọi đi giải phóng dân Israel, (Cv 7:30) ông đã hướng đạo dân Israel đi trong sa mạc suốt 40 năm.
  3. Sau hai lần ở trên núi Sinai 40 ngày đêm cầu nguyện, (Xh 24:18; Xh 34:28) ông Môsê nhận được Luật Giao Ước để tổ chức đời sống cho Dân Chúa.
  4. Sau 40 năm đi trong sa mạc, (Ds 14:22; Đnl 1:3) đoàn dân vào Đất Hứa, thoát kiếp nô lệ, được sống tự do.
  5. Sau 40 ngày đêm đi trong sa mạc, (1 V 19:8) ngôn sứ Êlia đến núi Khôrép (Sinai) để gặp Thiên Chúa và được Người củng cố trong sứ mạng.
  6. Sau 40 ngày ăn chay hãm mình đền tội, dân thành Ninivê được Thiên Chúa tha thứ. (Gn 3:10)
  7. Sau 40 ngày ăn chay trong sa mạc, (Mt 4:2) Đức Giêsu công khai thi hành sứ vụ.
  8. Sau khi sống lại 40 ngày, Đức Giêsu dạy dỗ các tông đồ, chuẩn bị cho các ông đón nhận Chúa Thánh Thần, Hội Thánh được thiết lập, và các ông can đảm ra đi truyền giáo. (Cv 1:3)

Xem thêm

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH

Có vô số người, vương cung thánh đường, nhà thờ, đền thánh, chủng viện, tu …