Home / Chia Sẻ / THUẾ ĐỜI

THUẾ ĐỜI

THUẾ ĐỜIThuế là nhiệm vụ người dân đối với nhà nước, nhưng đôi khi có những thứ thuế nặng nề hoặc vô lý khiến dân chịu khổ. Ngày xưa có loại “thuế thân” – còn gọi là thuế đinh, một thứ thuế của chế độ phong kiến thời quân chủ, đánh theo mức cố định mỗi người, ai cũng phải nộp bằng hiện vật hay hiện kim. Sưu dịch cũng là loại thuế thân, nhưng đóng bằng sức lao động.

Tại Việt Nam, đời nhà Lý có lệ mỗi năm khai số hộ – gọi là đơn số, đàn ông 18 tuổi gọi là hoàng nam, từ 20 tuổi trở lên gọi là đại nam. Thuế đinh được “bổ” theo đinh bộ hay hộ tịch mỗi làng. Thuế thân thời này căn cứ theo số ruộng của mỗi người, ai không có ruộng thì không phải nộp.

Về sau, người Pháp tiếp tục áp dụng thuế thân ở Việt Nam cho đến năm 1945. Thuế thân thời Pháp thuộc đánh vào các “suất đinh” – đàn ông từ 13-53 tuổi, trừ những người làm trong bộ máy chính quyền và một số trường hợp được miễn khác.

Trình thuật Mt 22:15-21 kể: Một hôm, những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc bẫy. Không chỉ vậy, họ còn cấu kết với phe Hêrôđê – kẻ nham hiểm và hèn nhát. Quả thật, họ sai các đệ tử của họ cùng đi với những người theo phe Hêrôđê đến nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta. Vậy xin Thầy cho biết ý kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?” Ra vẻ chân thành nhưng chỉ là mưu mô xảo quyệt. Miệng cầu nguyện mà bụng lắm dao găm. Kinh khủng thật! Những kẻ nham hiểm như vậy vẫn có ở mọi thời, mọi nơi.

Vải thưa không thể che mắt thánh. Sự thật mãi là sự thật. Chúa Giêsu biết mưu kế của họ nên Ngài nói thẳng: “Tại sao các người lại thử tôi, hỡi những kẻ giả hình? Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế!” Họ thường xuyên bị Chúa Giêsu không chỉ trách mắng mà còn nguyền rủa, nhưng họ cứ trơ trơ. Họ vẫn thản nhiên đưa cho Ngài một quan tiền. Ngài vừa chỉ đồng tiền vừa hỏi họ hình và danh hiệu của ai. Họ trả lời tỉnh queo: “Của Xêda.” Tồi tệ và trơ trẽn! Ngài bảo họ: “Thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa.” Cái gì của ai thì phải trả cho người đó, vì đó là quyền sở hữu của họ, không ai có quyền chiếm hữu bất cứ thứ gì của người khác – dù vật thể hay phi vật thể. Chúa trả lời quá độc đáo. Họ rất ngạc nhiên, và đành im lặng bỏ đi thôi.

Đụng chạm quyền sở hữu của người khác là có tội. Có hai điều Thiên Chúa đã nghiêm cấm: Chớ LẤY của người và chớ THAM của người. (Giới Răn 7 và 10) Thế nhưng có người lại khái niệm lệch lạc thế này: “Cho không lấy, thấy không xin, kín thì rình, hở thì rinh.” Nguy hiểm quá! Cuộc sống có nhiều dạng sở hữu, nhưng cần phải biết phân biệt rạch ròi: Cái gì thuộc về trần tục và cái gì thuộc về tâm linh. Đừng lầm lẫn kẻo mang họa. Nếu khoản luật đó hợp với công bình và bác ái thì phải thi hành.

Tuân theo quyền bính thế gian cũng là vâng lời Thiên Chúa, nhưng chỉ với điều đúng đắn. Alfred Einstein nói: “Đừng làm gì trái với lương tâm, ngay cả khi chính quyền yêu cầu.” Con người có hai phần – hồn và xác, thế nên cũng có hai dạng trách nhiệm, không thể lẫn lộn. Thánh Phaolô nói về nhà chức trách: “Làm điều thiện thì không phải sợ nhà chức trách, có làm điều ác mới phải sợ. Bạn muốn khỏi phải sợ chính quyền ư? Hãy làm điều thiện, và bạn sẽ được họ khen ngợi, vì chính quyền là người thừa hành của Thiên Chúa để giúp bạn làm điều thiện. Nhưng nếu bạn làm điều ác thì hãy sợ, vì họ mang gươm không phải không có lý do. Thật vậy, họ là người thừa hành của Thiên Chúa để giáng cơn thịnh nộ của Người xuống kẻ làm điều ác. Vì lẽ đó, cần thiết phải phục tùng, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm.” (Rm 13:3-5) Ở đây đề cập “lương tâm ngay lành” chứ không nói tới “lương tâm lệch lạc.”

Lương tâm bị “chai cứng” hoặc “lệch lạc” là loại lương tâm không thể phân biệt phải – trái. Đó là loại lương tâm nguy hiểm, vì không còn cảm thức tội lỗi. Ngày nay có những người tự xưng là thuộc tổ chức IS (Islamic State – Nhà nước Hồi giáo), họ giết người rất dã man vì cho đó là “chính nghĩa,” là “thánh chiến.” (sic!) Ngay cả các trẻ em vô tội cũng bị họ sát hại dã man. Đã từng có đợt họ hành hạ dã man khoảng 70.000 trẻ em. Niềm tin tôn giáo lệch lạc nên hóa bất nhân!

Thánh Phaolô dặn dò Titô rạch ròi: “Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt, và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người.” (Tt 3:1-2) Các mệnh lệnh cách rất mạnh mẽ.

Mọi thứ sẽ qua đi. Tất cả cũng chỉ là phù vân. Sinh ra tay trắng, không mang gì vào trần gian, chết cũng trắng tay, chẳng mang gì ra được. (1 Tm 6:7) Chắc chắn không có gì trường tồn ở thế gian này, ngay cả những gì chúng ta đang sở hữu cũng không thuộc về chúng ta mãi mãi, thậm chí kể cả sự sống: “Chúa lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi.” (Tv 104:29) Những gì chúng ta sở hữu và thuộc về chúng ta mãi mãi chính là các nhân đức, đặc biệt là đức ái. Loại “vật sở hữu” này rất quan trọng, gọi là “công trạng,” vì đó sẽ là chứng cớ hùng hồn bênh vực cho chính chúng ta, chỉ nhờ đó mà chúng ta được trở thành Công Dân Nước Trời – dĩ nhiên trước tiên phải nhờ công cuộc cứu độ của Đức Giêsu Kitô.

Thánh LM TS Tôma Aquinô (1225-1274) rất khôn ngoan khi cầu xin: “Con chỉ muốn Chúa thôi!” Đó là điều duy nhất mà ai cũng phải nỗ lực để khả dĩ “sở hữu” mãi mãi. Thánh TS Gioan Thánh Giá (1542-1591), khi Chúa hỏi “muốn phần thưởng gì,” ngài trả lời: “Xin cho con chịu ĐAU KHỔ và chịu SỈ NHỤC vì Chúa.” Đó là dạng sở hữu rất đặc biệt, đồng thời cũng là trách nhiệm và bổn phận. Có một loại thuế đặc biệt mà chúng ta phải nộp cho Thiên Chúa là tình yêu: Mến Chúa – Yêu Người. Có Chúa thì có tất cả, không có Ngài thì “trắng tay” mọi sự.

Nói về bổn phận phải thực hiện, người Việt có câu: “Ăn cây nào, rào cây nấy.” Người ta cũng có cách nói khác: “Của thiên trả địa.” Đó là nói về tình trạng sở hữu, nhưng mang nghĩa xấu, ý nói rằng cái gì không là của mình thì không thể giữ được, tương tự kiểu nói: “Của phi nghĩa có giàu đâu!”

Không ai lại không có gì sở hữu, hiểu đơn giản là “quyền làm chủ.” Quyền sở hữu liên quan bổn phận, vậy thì ai cũng có bổn phận. Quyền sở hữu là quyền cơ bản nhất của mỗi con người. Thời gian và tự do là đặc ân Chúa ban, nghĩa là chúng ta có quyền sở hữu hai thứ đó. Nhưng chúng ta KHÔNG LÀM CHỦ mà CHỈ QUẢN LÝ, vì chính Chúa Giêsu minh định: “Chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Thật vậy, khi nói về một tài năng nào đó, người ta dùng chữ “thiên phú” – tức là “trời cho” đó thôi. Tác giả sách Giảng Viên cảm nhận: “Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân BIẾT KÍNH SỢ NGƯỜI.” (Gv 3:12-14) Vấn đề quan trọng là người nào đó có tài năng mà còn biết kính sợ Chúa mà khiêm nhường hay không. Vả lại, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5) Ảo tưởng thì chết chắc!

Vua Kyrô là người được Thiên Chúa xức dầu, Ngài nói về ông: “Ta đã cầm lấy tay phải nó, để bắt các dân tộc suy phục nó, Ta tước khí giới của các vua, mở toang các cửa thành trước mặt nó, khiến các cổng không còn đóng kín nữa.” (Is 45:1) Ngài giải thoát ai, người đó thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta cũng được Thiên Chúa cứu độ bằng Giá Máu của Đức Giêsu Kitô, Con Một Yêu Dấu của Ngài, vậy chúng ta cũng thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Đức Kitô và mặc lấy Đức Kitô, (Gl 3:27) thuộc dòng dõi Ápraham và được thừa kế. (Gl 3:29) Những ai thuộc về Thiên Chúa thì phải vâng lời Ngài. (Ga 8:47) Đó là bổn phận và trách nhiệm, là “thuế” phải nộp cho Ngài.

Thiên Chúa giải thích: “Vì lợi ích của tôi tớ Ta là Giacóp, và của người Ta đã chọn là Israel, Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác; chẳng có ai là Thiên Chúa, ngoại trừ Ta. Dù ngươi không biết Ta, Ta đã trang bị cho ngươi đầy đủ, để từ Đông sang Tây, thiên hạ biết rằng chẳng có thần nào khác, ngoại trừ Ta. Ta là Đức Chúa, không còn chúa nào khác.” (Is 45:4-6) Thiên Chúa nhấn mạnh tính cao cả duy nhất của Ngài bằng cách lặp đi lặp lại: “Ta là Đức Chúa, KHÔNG CÒN CHÚA NÀO KHÁC.” Minh nhiên là chúng ta chỉ được phép tôn thờ một mình Ngài, mọi thứ khác đều là ngẫu tượng. Như dân Israel, chúng ta được là dân riêng của Ngài. Thật diễm phúc vì chúng ta nhận biết Ngài, tôn thờ Ngài, và không ngừng nỗ lực học bài học yêu của Ngài.

Là phàm nhân, chúng ta hoàn toàn bất xứng, bởi vì “con tim là tro bụi, hy vọng hèn hơn đất, cuộc đời tệ hơn bùn,” (Kn 15:10) nhưng Thiên Chúa vẫn quan tâm, chăm sóc và hết mực yêu thương chúng ta, Ngài còn khuyến khích chúng ta như đã động viên dân Israel xưa: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (Is 43:1) Chúng ta cũng vậy. Ngày nay có những thứ thuộc về Thiên Chúa, tương tự như dân Israel. Đó là những thứ thuộc quyền sở hữu của Ngài, không ai có thể “đụng chạm” đến. Chúng ta thật diễm phúc: “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv 8:5)

Mọi sự ở dưới bầu trời này đều có lúc, mọi việc đều có thời. Ngay cả chuyện ăn uống và hưởng những thành quả do công lao khó nhọc mình làm ra, tức là tận hưởng những gì mình sở hữu, điều đó đã là một món quà Thiên Chúa ban tặng rồi. (x. Gv 3:1-12) Tất cả chỉ là phù vân, chúng ta “chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết,” (Tv 49:13) chẳng có gì bền vững, chỉ có Thiên Chúa là Đấng vạn đại trường tồn. (Tv 102:25) Biết mình hữu hạn, biết Chúa vô hạn, để mà hết lòng tôn thờ và tán tụng Ngài. Cảm nhận niềm hạnh phúc này, Thánh Vịnh gia không thể lặng im nên đã mời gọi: “Hát lên mừng Chúa một bài ca mới, hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu!” (Tv 96:1)

Việc chúng ta ca tụng Chúa chẳng thêm gì cho Ngài, nhưng đem lại ơn cứu độ cho chúng ta. Ca tụng Ngài không chỉ là trách nhiệm và bổn phận của chúng ta mà còn là niềm hạnh phúc của chúng ta: “Hát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh! Ngày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ, kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển, cho mọi nước hay những kỳ công của Người. Chúa thật cao cả, xứng muôn lời ca tụng, khả tôn khả uý hơn chư thần, vì chư thần các nước thảy đều hư ảo, còn Đức Chúa, Người sáng tạo trời cao.” (Tv 96:3-5) Ca tụng Chúa khi chúng ta may mắn thì dễ thực hiện, nhưng ca tụng Chúa ngay cả khi cuộc đời chúng ta không “xuôi chèo mát mái” là điều khó thực hiện, nhưng làm được vậy mới có giá trị cao. Trong đau khổ tận cùng, ông Gióp vẫn rạch ròi đặt vấn đề với người vợ vô tâm vô tính: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2:10)

Sinh ra tay trắng, chẳng có hành lý gì vào đời, nhưng Thiên Chúa vẫn ban cho chúng ta mọi thứ (cả vật chất lẫn tinh thần), thế mà chúng ta vô tâm cho rằng đó là “dĩ nhiên,” đã không biết tạ ơn mà còn “so đo” cho rằng mình không được may mắn như người khác. Thật ra đó là ý mình, không phải Ý Chúa, đôi khi chúng ta chỉ muốn ép Chúa theo ý mình mà thôi.

Thiên Chúa luôn xứng đáng để chúng ta xưng tụng mọi nơi và mọi lúc. Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Hỡi các dân các nước, hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang, hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người. Hãy bưng lễ vật, bước vào tiền đình Chúa, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện, toàn thể địa cầu, hãy run sợ trước Thánh Nhan. Hãy nói với chư dân: Chúa là Vua hiển trị, Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng chuyển lay, Người xét xử muôn nước theo đường ngay thẳng.” (Tv 96:7-10) Thật hạnh phúc khi nhận biết và xưng tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa duy nhất, không có Đấng nào khác. Đó là sự thật minh nhiên và chắc chắn.

Tất cả là của Chúa, chúng ta chẳng có gì, không có Ngài thì chúng ta chẳng làm nên trò trống gì, chỉ là đồ vô tích sự. (x. Ga 15:5 và Lc 17:10) Không có lý do gì mà chúng ta lại không tôn vinh và không tạ ơn Thiên Chúa. Có ai đau khổ bằng ông Gióp? Thế mà trong lúc đau khổ đến tột cùng, mất hết mọi sự, từ của cải tới con cái, nhưng ông vẫn “không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Thiên Chúa xác nhận với Satan về ông Gióp: “Chẳng có ai trên cõi đất này giống như nó: một con người vẹn toànngay thẳngkính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác.” (G 1:8) Đó là 4 “điểm son” của Thánh Gióp, đồng thời là một tấm gương lớn sáng chói để chúng ta soi vào. Cuộc đời có khi chưa đến nỗi nào mà chúng ta đã than trách đủ thứ. Còn lâu chúng ta mới có thể “xách dép” chạy theo Thánh Gióp. Vác thập giá đâu có sướng, đâu có nhàn, không thể cứ tà tà mà vác rồi đòi hỏi đủ thứ cho mình.

Chúng ta không chỉ phải biết tạ ơn và cầu nguyện cho mình mà còn phải tạ ơn và cầu nguyện cho người khác, đồng thời còn phải biết ơn nhau. Đó là trách nhiệm và bổn phận. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa về tất cả anh em. Chúng tôi nhắc đến anh em trong lời cầu nguyện, và trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta, chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô.” (1 Tx 1:2-3) Đó là sợi dây liên đới trong tình yêu Kitô giáo.

Thánh Phaolô vừa giải thích vừa xác định: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa. Anh em biết, khi ở với anh em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh em.” (1 Tx 1:4-5) Lời này cũng nói với chính mỗi chúng ta.

Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Quốc gia nào cũng có hiến pháp – nhưng hiến pháp phải hợp lòng dân, không thể tự ý ra luật “tùy hứng” rồi bắt người khác thực hiện, theo kiểu “luật rừng.” Luật có sau con người. Luật vị nhân sinh, luật vì con người, giúp con người sống tốt hơn và duy trì trật tự. Nên giữ luật nhưng đừng câu nệ luật, cứng ngắc theo “chữ đỏ.” Tương tự, người ta nói rằng “tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên.” Trong ba người cùng đi cũng có một người là thầy, có khả năng hướng dẫn hai người kia – tức là có thể “làm luật.” Dù là luật gì cũng không thể để “hành hạ” người khác, mà phải vì yêu thương.

Theo truyền thống Công giáo, Chúa Nhật áp chót của tháng Mười là ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, ngày cổ vũ ơn thiên triệu linh mục và dâng hiến. Ngày Thế Giới Truyền Giáo được ĐGH Piô XI khai sinh từ năm 1926.

Lạy Thiên Chúa, ngày và đêm là của Ngài, (Tv 74:16) trời và đất cũng là của Ngài, (Tv 89:12) chúng con chẳng có gì, xin triệt tiêu tính kiêu ngạo trong chúng con và xin đổ máu hồng thương xót đầy tim mọi người để tất cả NÊN MỘT (Ga 17:20-23) theo Thánh Ý Ngài, xin ban ơn thông minh để chúng con sáng suốt biết việc phải làm như Ngài muốn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

  

Xem thêm

Lc 2, 1-14

SUY NIỆM TIN MỪNG LỄ ĐÊM GIÁNG SINH, CỦA LM ANTÔN NGUYỄN VĂN ĐỘ

Cửa Thánh mở – Niềm vui Chúa ra đời SUY NIỆM ĐÊM GIÁNG SINH (Lc …