Thánh sử Gioan minh định về Đấng Cứu Thế: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1:9-11). Đấng đó chính là Hài Nhi Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa, sinh bởi Đức Nữ Trinh Maria tại hang đá miền Belem năm xưa. Nhưng nhân loại vô cùng tồi tệ vì từ khước tiếp nhận Ngài bằng nhiều cách – ngày xưa theo kiểu xưa, ngày nay theo kiểu nay.
Thiên Chúa không cần gì, vì Ngài có mọi sự, Ngài chỉ cần tấm lòng. Thật vậy, tấm lòng rất quan trọng: “Hãy suy tưởng ngay lành về Đức Chúa và thành tâm kiếm tìm Người” (Kn 1:1). Con người phàm phu tục tử cũng vẫn luôn cần tấm lòng dành cho nhau, dù cho có thể tấm lòng đó không được người khác đón nhận nhưng chúng ta vẫn phải chân thành. Trịnh Công Sơn gọi đó là “gió cuốn đi” (Sống trong đời sống cần có một tấm lòng…).
Những người trung niên trở lên chắc còn nhớ ngày xưa gọi là Lễ Ba Vua – chú ý tới “đối tác” là các khách đến thăm viếng, nhưng ngày nay gọi là Lễ Hiển Linh – chú ý tới chủ thể (chính Thiên Chúa hiển vinh). Tuy nhiên, thật ra không chỉ có 3 vị mà nhiều vị, và họ cũng không phải là các Quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, các hiền nhân từ Đông phương đi tìm “nhân vật đặc biệt” mà họ nhận biết, họ miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn tới hang đá Belem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Chính Ngôi Hai đã hóa thành nhục thể, làm người, để đồng lao cộng khổ với số kiếp con người của chúng ta. Quả thật, đó là cách độc đáo Chúa dùng để cho muôn dân nhận biết Ngài là Thiên Chúa.
Dựa vào Phúc Âm thứ nhất – Tin Mừng theo Thánh sử Mátthêu, và các nghiên cứu về lịch sử tôn giáo, chúng ta thấy có các chi tiết và các điểm khác biệt từ câu chuyện về ba đạo sĩ. Qua đó, chúng ta thấy có 4 điểm chính:
– Họ là người Ba Tư đến từ vùng đất bán thần thoại Shir (liên quan Trung quốc cổ đại) với cuộc hành trình dài.
– Có hàng chục đạo sĩ chứ không chỉ có ba người đã viếng thăm Hài Nhi Giêsu. Phúc Âm theo Thánh Mátthêu không xác định số người, chỉ đề cập ba người tiến dâng lễ vật cho Hài Nhi Giêsu.
– Ba đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Ông Tổ Adam. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên của ba đạo sĩ là Balthasar, Gaspar và Melchior.
– Họ thuộc một giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng. Họ đã chờ đợi rất lâu để có thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một Thiên Tử.
Họ không phải là vua chúa hoặc quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia hoặc hiền nhân, và đến từ Đông phương xa lắc xa lơ, miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến tận Belem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài.
Đó là một hành trình đức tin kỳ diệu. Họ tìm kiếm Thiên Chúa, và họ đã gặp được Thiên Chúa. Đúng như ngôn sứ Isaia cho biết: “Hãy tìm Đức Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên” (Is 55:6). Những người thành tâm thì sẽ dễ dàng quyết tâm.
QUYẾT TÂM LÊN ĐƯỜNG
Quyết tâm là điều quan trọng để có thể làm bất cứ việc gì. Các hiền nhân quyết tâm ra đi nhưng chưa biết sẽ đến đâu và trong thời gian bao lâu, một hành động không dễ chút nào. Lòng thành của họ đã được Thiên Chúa đền đáp bằng cách cho xuất hiện Ánh Sao Lạ để dẫn đường cho họ.
Từ mấy ngàn năm trước, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và nay lời hứa đó đã ứng nghiệm trọn vẹn: Ngôi Hai xuống thế làm người và ở cùng nhân loại.
Tất cả chúng ta đều là tội nhân, những kẻ nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được Đức Giêsu đến giải thoát, tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, đưa ra khỏi bóng đêm của ma quỷ, đặc biệt là chúng ta được thừa nhận “thực sự là con cái của Thiên Chúa” (1 Ga 3:1-2; Rm 8:16), và ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2). Ôi, niềm hạnh phúc lớn lao quá!
Thật vậy, chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” (Is 60:4). Vì thế, chúng ta không còn buồn vì thoát khỏi “vòng kim cô” của ma quỷ, tất nhiên không thể không vui cười hớn hở, với bộ mặt rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui như ngày hội và vui như tết – tết tâm linh.
Tại cánh đồng hoang vu Belem kia, Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối năm xưa lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng Đức Chúa. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:6).
Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để PHỤC VỤ chứ KHÔNG ĐƯỢC ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32), Ngài “đến để TÌM và CỨU những gì đã mất” (Lc 19:9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10:10). Cách hành động của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, và Ngài nói “toạc móng heo” luôn: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55:8). Một sự thật minh nhiên bất biến.
Tuy nhiên, triều đại của Vua Nghèo vẫn “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:11). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn THEO SÁT đồng bào, Ngài luôn TẬN TỤY với đám dân nghèo, Ngài cương quyết BẢO VỆ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv 72:12-13). Ai cũng có nhân vị, thế nên nhân phẩm và nhân quyền phải được tôn trọng, kể cả sự sống, bởi vì tội nhân cũng là thụ tạo của Thiên Chúa và là con cái của Ngài.
Khi các hiền nhân từ Đông phương thấy Ánh Sao Lạ, họ biết có một đại nhân vừa xuất hiện, thế là họ quyết tâm và mau mắn lên đường, không quản ngại đường xa hiểm trở, mong tìm cho ra đại nhân kia. Và rồi ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh thuộc miền Belem.
Khi nhìn thấy cảnh tượng như vậy, nếu là chúng ta thì có lẽ chưa chắc muốn bước vô, thậm chí có thể kéo nhau quay đi hướng khác cho nhanh, có thể “chạy mất dép” chứ chẳng là giả thuyết đâu! Thế nhưng các đạo sĩ không ngần ngại bước vô. Họ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn KHÔNG HỀ THẤT VỌNG và TIN THẬT rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật. Mà không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật quý báu nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo.
Ngày nay, chúng ta không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nhưng chúng ta được học biết đó là mầu nhiệm, và chúng ta đã tin. Giả sử tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta chưa chắc dám tin Em Bé Giêsu chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Thế thì chúng ta may mắn lắm, bởi vì Thánh Phaolô cho biết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” (Ep 3:2-3). Thật là đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” (Ep 3:5). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).
Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều cần phải thực hiện điều tiếp theo, đó là sẵn sàng, quyết tâm và hành động. Hành động bằng cách nào? Vào đời và ra khơi…
QUYẾT TÂM VÀO ĐỜI – RA KHƠI
Chúa Giêsu là Thiên Vương, theo cách gọi của phàm nhân thì Đức Maria là Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là Phụ Vương – dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Thật khổ, nhưng Chồng không ngại chi, cứ lặng lẽ làm luôn tay. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng húm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim “cảnh khổ” vẫn chưa kết thúc!
Thời gian đó là lúc vua Hêrôđê trị vì. Ông ta được đám người lạ vào hỏi thăm: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2:1-2). Nghe vậy, Hêrôđê tá hỏa, choáng váng, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Ông ta sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông ta liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, hỏi cặn kẽ xem Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” (Mt 2:6). Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi rõ ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8). Mưu sâu kế độc chứ chẳng tốt lành gì!
Họ nghe nhà vua nói thế thì tưởng ông này tốt bụng, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà”, mưu kế thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình mà thôi. Thời nay cũng có nhiều kẻ theo “sách lược” của Hêrôđê. Kinh tởm! Rồi các hiền nhân tiếp tục đi theo ngôi sao và được dẫn đến tận nơi. Khi thấy ngôi sao dừng lại, thế là “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2:11). Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Ôi, hay quá chừng luôn. Thật tuyệt vời!
Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, họ bất ngờ vì biết mưu độc của gã Hêrôđê, và họ đã tìm lối khác mà về xứ mình. Các hiền nhân đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, sẵn sàng ra khơi mặc dù gió to sóng lớn. Họ tránh ác nhân Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt.
Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân. Theo Thánh GH Phaolô VI “chính trị là một dạng bác ái cao nhất”. Đức ái là một dạng sống tốt, là chia sẻ yêu thương và những gì mình có – vật chất hoặc tinh thần. Kinh Thánh cho biết: “Những điều tôi đã thành tâm học hỏi được, xin truyền đạt hết, không dè sẻn chi. Tôi không hề giấu giếm của cải phong phú của Đức Khôn Ngoan” (Kn 7:13).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương các hiền nhân Đông phương xưa, không ngừng miệt mài tìm Ngài, và can đảm hành động vì Ngài. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn sáng soi chúng con suốt hành trình trần thế, thúc giục chúng con mau mắn thi hành đúng Thánh Ý Ngài mọi lúc, mọi nơi. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU