Tẩy rửa là cách làm cho sạch, thông thường người ta dùng nước để rửa. Nước là một hợp chất hóa học của Oxy và Hydro, công thức hóa học là H₂O. Nước có lý tính và hóa tính đặc biệt, là chất rất quan trọng trong nhiều ngành khoa học và đời sống.
Nước che phủ 70% diện tích trái đất và chiếm 60-70% thể trọng của con người, điều đó có nghĩa là nước thực sự quan trọng đối với con người – kể cả động vật và thực vật.
Về tâm linh, Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (Tv 51:3-4) Là phàm nhân, ai cũng phải tẩy rửa, không chỉ làm sạch thể lý mà đặc biệt là làm sạch tâm hồn. Sám hối là một dạng tẩy rửa linh hồn.
Phép Rửa cần thiết, vì Chúa Giêsu đã giải thích và xác định với ông Ni-cô-đê-mô: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:5-6) Thánh Phaolô cho biết ba điều duy nhất: “Chỉ có một Thiên Chúa, một niềm tin, một phép rửa.” (Ep 4:5)
Chúa Giêsu không cần lãnh nhận Phép Rửa, Ngài chỉ muốn nêu gương cho chúng ta. Sau kh ông Gioan làm Phép Rửa cho Ngài, Chúa Cha đã xác nhận: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17) Điều đó đã được nói trước từ ngàn xưa: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.” (Tv 2:7) Người Con đó là Đức Giêsu Kitô, là Ngôi Lời có từ khởi đầu, vẫn hướng về Thiên Chúa và là Thiên Chúa, (Ga 1:1) ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. (Ga 1:4)
Tình Phụ Tử mặc định khi đề cập người cha hoặc người con. Nhưng ở đây, Tình Phụ Tử không đơn thuần như tình cha con bình thường về nhân tính mà là Tình Phụ Tử về thần tính của ngôi vị Thiên Chúa. Đối với con người, Tình Phụ Tử đã có điều thiêng liêng cao quý rồi, huống chi ở đây là Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, sâu thẳm mầu nhiệm lắm.
Đối với cuộc sống đời thường, công cha nghĩa mẹ là thâm ân mà chúng ta phải ghi lòng tạc dạ suốt đời, không thể coi đó là “chuyện dĩ nhiên” như một số ác tử bất hiếu nhẫn tâm đối xử tàn tệ với song thân phụ mẫu của mình. Thật vậy, chẳng ai đếm được lá rừng, tầng mây, tinh tú,… thì cũng chẳng ai tính được công ơn cha mẹ.
Chắc chắn chẳng ai đếm được ân nghĩa cao dày đó. Ai cũng là con, vì ai cũng có cha mẹ. Ca dao nói đến người mẹ cũng có nghĩa là nói tới người cha. Là Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu Kitô cũng muốn sinh ra trong một gia đình. Ngài là Người Con Yêu Dấu mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới từ ngàn xưa với danh xưng “Người Tôi Trung”.
Chính Người Con đó đã được xác định trong “Bài Ca Thứ Nhất” của Người Tôi Trung: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho thần khí Ta ngự trên nó; nó sẽ làm sáng tỏ công lý trước muôn dân. Nó sẽ không kêu to, không nói lớn, không để ai nghe tiếng giữa phố phường. Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gẫy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý. Nó không yếu hèn, không chịu phục, cho đến khi thiết lập công lý trên địa cầu. Dân các hải đảo xa xăm đều mong được nó chỉ bảo.” (Is 42:1-4) Trong đó, chữ “công lý” được đề cập 3 lần, điều đó chứng tỏ công lý là vấn đề rất quan trọng, ngày xưa cũng như ngày nay.
Điều đó cũng cho thấy rằng Người Con này là người rất cương quyết, bản chất tuy thật thà nhưng lại rất thẳng thắn, trừng trị bất cứ kẻ nào dám ngang bướng, lọc lừa, gian trá, không tôn trọng chân lý, dám bóp méo sự thật. Chính trong “Bài Ca Thứ Nhất” cũng nói tới những “đặc tính” của Người Tôi Trung: không kêu to, không nói lớn, không trù dập kẻ yếu thế, không yếu hèn, không khuất phục,… đặc biệt là LÀM SÁNG TỎ CÔNG LÝ. Và đó là điều mà chúng ta không ngừng mong ước.
Từ ngàn xưa, chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận rõ ràng thế này: “Ta là Đức Chúa, Ta đã gọi ngươi, vì muốn làm sáng tỏ đức công chính của Ta. Ta đã nắm tay ngươi, đã gìn giữ ngươi và đặt làm giao ước với dân, làm ánh sáng chiếu soi muôn nước, để mở mắt cho những ai mù lòa, đưa ra khỏi tù những người bị giam giữ, dẫn ra khỏi ngục những kẻ ngồi trong chốn tối tăm.” (Is 42:6-7) Người Cha rất chính trực nên Người Con cũng rất thẳng thắn, bình thường hóa cách nói như Việt ngữ là “cha nào, con nấy” – ở đây phải hiểu theo nghĩa tích cực và tốt lành, Cha và Con là một.
Vì thế, cả Cha và Con đều tuyệt đối tuyệt vời và tuyệt vời tuyệt đối. Đồng thời có điểm vô cùng đặc biệt “không giống ai” là Cha và Con đều công minh, chính trực, không thiên vị, không phe cánh, luôn thẳng thắn, không vị nể ai, “cứ theo sự thật mà xét xử” (Rm 2:2) và “cứ theo công việc mỗi người mà xét xử.” (1 Pr 1:17) Tuy nhiên, Cha và Con lại giàu lòng thương xót. Phàm nhân chúng ta không thể nào hiểu thấu những điều liên quan Thiên Chúa. Ngài tuyệt đối, còn chúng ta chỉ tương đối mà thôi.
Và chính Người Tôi Trung đó cũng chính là Người Con Yêu Dấu, là Đấng Ái Tử, là Đấng Ngôi Lời Giêsu Kitô, là Hài Nhi đã giáng sinh nơi hang đá Belem và đã chịu chết trên Thập Giá tại Đồi Can-vê năm xưa. Thật kỳ diệu, vì Người Con Yêu Dấu đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Chúa của chúng ta. Thật vui mừng và hạnh phúc biết bao! Vì thế, chúng ta không thể không nghe lời Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy dâng Chúa, hỡi chư thần chư thánh, dâng Chúa quyền lực và vinh quang. Hãy dâng Chúa vinh quang xứng danh Người, và thờ lạy Chúa uy nghiêm thánh thiện.” (Tv 29:1-2) Đó cũng là bổn phận của chúng ta, thụ tạo của Ngài.
Thiên Chúa là Đấng dũng mãnh vô song và hiện hữu mọi nơi, nhưng không ai có thể nhìn thấy Ngài bằng mắt thường, mà chỉ có thể nhận biết bằng đức tin: “Tiếng Chúa rền vang trên sóng nước, Thiên Chúa hiển vinh cho sấm nổ ầm ầm, Chúa ngự trên nước lũ mênh mông. Tiếng Chúa thật hùng mạnh! Tiếng Chúa thật uy nghiêm! Tiếng Chúa lay động cả rặng sồi, tuốt trụi lá cây cao rừng rậm.” (Tv 29:3-4, 9a) Các hiện tượng thiên nhiên đã và đang chứng minh sức mạnh của Thiên Chúa: mưa gió, áp thấp, bão tố, sóng thần, hạn hán,…
Chắc chắn trách nhiệm của chúng ta là tuyên xưng và làm chứng về Ngài ở mọi nơi, mọi lúc, và với mọi người. Còn khi ở trong thánh điện Ngài, tất cả phải cùng tung hô: “Vinh danh Chúa!” (Tv 29:9b) Câu này cũng “nhắc khéo” và “nhắc lớn” (chứ không “nhắc nhỏ”) đối với mỗi chúng ta: “Đừng chỉ là CHIÊN khi ở trong nhà thờ, còn ra khỏi nhà thờ thì hóa thành CỌP.” Thực sự rất đáng quan ngại!
Có lần Thánh Phêrô đã thẳng thắn lên tiếng về việc bảo vệ chân lý và làm theo sự thật: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa KHÔNG THIÊN VỊ người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào cũng đều được Người tiếp nhận. Người đã gửi đến cho con cái nhà Ít-ra-en lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người.” (Cv 10:34-35a) Rất rõ ràng. Rất rạch ròi. Thiên Chúa là thế. Tuy nhiên, có lẽ người ta vẫn thường ảo tưởng mà cho rằng mình đã được rửa tội, là Kitô hữu chính hiệu, và vẫn giữ đạo đầy đủ thì chẳng có gì phải lo. Thật vậy chăng? Người ta chỉ quan tâm việc “giữ đạo” còn việc “sống đạo” lại dễ bỏ qua. Vì ảo tưởng, vì không biết hay không muốn biết? Mức độ “giữ đạo” còn ở dạng thô sơ, còn tiêu cực, mức độ “sống đạo” mới là tích cực, dạng “cao cấp” cần thiết. Chuyện nhỏ mà không nhỏ, đơn giản mà nhiêu khê.
Vừa giải thích vừa minh định về Người Con Yêu Dấu, Thánh Phêrô cho biết: “Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giêsu xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người. Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người.” (Cv 10:35b-38) Chắc hẳn những điều này không “xa lạ” gì, bởi vì Kitô hữu nào cũng đã biết rõ rồi. Thế nhưng biết để mà biết thì cũng vô ích, mà phải làm “điều gì đó” khác hơn thì mới đúng ý muốn của Thiên Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16:15) Chẳng phải đi đâu xa, cứ “đi” tới nơi gần nhất là những người lân cận, thậm chí những người trong gia đình hoặc hàng xóm, nghĩa là cố gắng sống sao cho bất kỳ ai gặp chúng ta thì họ cũng có thể “thấy” Chúa nơi mỗi chúng ta – và chính chúng ta cũng “thấy” Chúa nơi họ.
Như một “dị nhân” đặc biệt, ông Gioan thể hiện rất rõ tính giản dị trong cách sống: “Mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.” (Mt 3:4) Vô cùng giản dị, giản dị tới mức có vẻ rất… “bụi đời”. Theo lẽ thường, những con người giản dị là người sống sâu sắc, có tư tưởng thâm thúy và khác người – đôi khi bị người ta xa lánh, bị coi là lập dị. Ngược lại, những con người ưa bề ngoài là người nông cạn, họ muốn dùng “hình thức” để khỏa lấp “khoảng trống” trong tâm hồn. Ông-bụi-đời Gioan cũng là người cương trực, thẳng như ruột ngựa, nhưng ông nói thẳng thắn với tinh thần yêu thương và khiêm nhường, chứ không “gài bẫy” người khác hoặc chỉ trích như đám Biệt Phái. Ông xác định: “Tôi, tôi làm phép rửa cho quý vị trong nước để giục lòng quý vị sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi KHÔNG ĐÁNG xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho quý vị trong Thánh Thần và lửa. Tay Ngài cầm nia, Ngài sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:11-12) Ông là đại ngôn sứ mà chỉ nhận mình là người không đáng chi, ông thực sự là “ông lớn” mà chỉ muốn là “ông nhỏ” mà thôi.
Rồi chính Đức Giêsu từ miền Galilê đến sông Gio-đan để trực tiếp gặp ông Gioan và xin ông làm phép rửa. Chúa Giêsu vô tội mà sao lại làm như vậy? Ông Gioan không hiểu nên một mực can Ngài và nói: “Chính tôi mới CẦN được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3:14) Thế nhưng Ngài ôn tồn nói: “Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta NÊN làm như vậy để giữ trọn đức công chính.” (Mt 3:15) Ôi, thì ra là như thế. Ông thực sự biết rõ ý Ngài rồi nên sẵn sàng hành động theo ý Ngài muốn. Từ bỏ ý mình để chiều lòng người khác là một hành động khiêm nhường, đáng quý trong biết bao!
Lúc trước, trong đêm Chúa Giêsu giáng sinh đã có những điềm lạ tỏ tường, nay lại có điềm lạ khác cũng tỏ tường: Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa xong và vừa ở dưới nước lên, các tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Ngài – Người Con yêu Dấu của Thiên Chúa Cha. Đặc biệt hơn nữa là có tiếng phán vọng từ trên trời: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 3:17)
Một lần khác cũng có điềm lạ tương tự. Đó là lúc Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor, trước sự chứng kiến của ba ông Phêrô, Giacôbê và Gioan, tiếng phán ra từ đám mây vang vọng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9:7) Đó là các chứng cớ xác định Đức Giêsu Kitô là ai. Thật diễm phúc cho những ai tin vào Người Con Yêu Dấu đó!
Tất cả phàm nhân chúng ta luôn cần phải tẩy rửa – bằng Nước, bằng Lửa, và đặc biệt là bằng Thần Khí – vì ô nhiễm đủ thứ, cả thể lý và tinh thần.
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con chính Người Con Yêu Dấu của Ngài, mặc khải về Ngài để chúng con tin nhận. Xin giúp chúng con biết chu toàn bổn phận và trách nhiệm làm con cái. Hằng ngày, xin cho chúng con được no say ân tình Ngài, để chúng con vui sống trọn kiếp người theo Thánh Ý Ngài. Xin Ngài dủ thương, chúc phúc, chiếu toả ánh Tôn Nhan rạng ngời trên chúng con, cho cả hoàn cầu biết đường lối và Ơn Cứu Độ của Ngài. (Tv 67:2-3) Xin tẩy rửa hồn xác chúng con nên tinh sạch để làm chứng về Ngài và tôn vinh Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU