- BẢN CHẤT NAM NỮ
Gần đây, khi suy ngẫm về St 1:26-31 ở Thánh Địa, tôi nghĩ về bản chất của con người, một dữ liệu ổn định đang bị thách thức ngày nay. Thiên nhiên đặt ra những giới hạn, Chúa Cha cũng vậy. Ngài phân chia khi Ngài tạo dựng.
Hành động sáng tạo đầu tiên của Thiên Chúa là tạo ra những ranh giới, những giới hạn. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng khỏi bóng tối, nước trên với nước dưới. Ngài cũng đặt ra những giới hạn phân biệt nước với đất, ngày với đêm, ngày Sabát với ngày làm việc, con người với thú vật, đàn ông với đàn bà. Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả và tuyên bố là “tốt lành.”
Hiện hữu và hành vi đạo đức đi đôi với nhau ngay từ đầu. Thiên Chúa là hiện hữu và lòng nhân lành của Ngài tuôn chảy từ Ngài mãi mãi, tức là cái gọi là “Bonum Diffusivum Sui” – Sự Thiện vươn mình ra. (Summa Theologiae I, q.5, a.4, ad2) Thiên Chúa là Cha, và giống như bất kỳ người cha nào, Ngài đại lượng nhưng đặt ra các giới hạn.
Các giới hạn Ngài đặt ra là những gì ngăn cản những quái vật biển huyền thoại của “sự hỗn độn.” Những quái vật này luôn sẵn sàng nhổ tận gốc sự sáng tạo của Thiên Chúa và đưa nó trở về trạng thái ban đầu là “sự trống rỗng không hình dạng và hoang tàn.” Bản chất của con người là một trong những giới hạn đó. Đàn ông không phải là đàn bà và đàn bà không phải là đàn ông. Con người không phải là siêu nhân. Con người là con người, và Chúa Giêsu Kitô đến không chỉ để cho chúng ta thấy Thiên Chúa Ba Ngôi, mà để cho chúng ta thấy bản chất của Thiên Chúa, Ngài còn cho chúng ta thấy bản chất liên quan của chúng ta. Chúng ta được tạo nên từ các mối quan hệ. Chúng ta không được tạo ra để ở một mình. Chúng ta không được tạo ra để sống tách biệt. Thay vào đó, chúng ta được tạo ra để giao tiếp với nhau trong khi vẫn duy trì cá tính riêng biệt của mình. Nó liên quan sự phân biệt hơn là sự tách biệt.
Khái niệm này rất rõ ràng đối với tôi ở Thánh Địa. Tôi cảm nhận được ý thức tôn giáo mãnh liệt ở Giêrusalem. Tuy nhiên, tôi cũng cảm nhận được rất nhiều sự tách biệt giữa ba tôn giáo độc thần. Tôi hiểu tại sao. Tôi hiểu rằng chúng ta không giống nhau. Rốt cuộc, một Kitô hữu tin rằng Chúa Giêsu Kitô là Đền Thờ Vĩnh Cửu thì không thể khóc trước sự tàn phá của Đền Thờ Salômôn. Ngài có thể làm như vậy vì tôn trọng, như một cử chỉ lịch sự, nhưng bản chất không phải là cử chỉ tôn giáo.
Điều tương tự cũng áp dụng cho sự tôn trọng dành cho Nhà thờ Hồi giáo Omar Caliph, vị trí của Tảng Đá được coi là trung tâm của thế giới. Nó có ý nghĩa đối với người Hồi giáo nhưng không có ý nghĩa đối với người theo Kitô giáo hay người Do Thái. Xét cho cùng, nó tượng trưng cho việc Omar Caliph chiếm Thánh Địa năm 638.
Điều này cũng áp dụng cho Thánh Mộ. Hầu hết người Do Thái ở Giêrusalem chưa bao giờ đến đó, mặc dù tôi đã gặp người Hồi giáo ở đó. Việc tôi nhìn thấy những người Hồi giáo ở đó hoặc tôi cảm thấy ít mâu thuẫn hơn với Nhà thờ Hồi giáo cho thấy người Do Thái và người theo Kitô giáo gần nhau tới mức nào. Suy cho cùng, người Do Thái có chung một nguồn gốc với chúng ta. Người ta có thể hiểu điều này hơn nữa đối với những người theo Chính Thống giáo hoặc với những người theo Tin Lành.
Càng giống nhau thì càng có nhiều căng thẳng. Đó là lý do tại sao Thánh Tôma Aquinô viết rằng lạc giáo còn có tội hơn là người Do Thái hay người không có đức tin. (x. Summa Theologiae II-II q. 10) Càng đến gần “sự hoàn hảo” của Lời mặc khải, hành động phản bội của người ấy càng tội lỗi hơn. Đó là trường hợp của Giuđa Iscariot chẳng hạn. Cho đi nhiều, mong đợi nhiều. Đó là bản chất của tình yêu và trách nhiệm. Sự đáp lại của tình yêu đối với tình yêu được mong đợi.
Mặc dù có những căng thẳng mà tôi cảm nhận, tôi hiểu rằng các Kitô hữu hiện diện ở Thánh Địa là những người đem lại hòa bình. Chúa Giêsu kết hợp Thiên Chúa với con người một cách chính xác qua việc Nhập Thể, một cử chỉ cao cả mặc khải rằng Thiên Chúa là Tình Yêu. Tuy nhiên, sứ điệp của Chúa Kitô chính xác là sứ điệp về sự hiệp nhất, một sự hiệp nhất tôn trọng cá tính riêng biệt của mỗi người và của mỗi nhóm.
Chẳng hạn, mối quan hệ này nằm ở nền tảng của bất kỳ cuộc hôn nhân nào phát triển tốt đẹp. Chúa phải đứng giữa hai người phối ngẫu. Ngài phải là đối tượng của sự kết hợp giữa hai người, xác nhận họ thành một xương thịt – una caro. Mối quan hệ giữa một người nam và một người nữ trong hôn nhân là duy nhất, cũng như mối quan hệ giữa một người nữ và một người nam.
Lưu ý rằng tôi đã đề cập hai mối quan hệ. Rõ ràng, tính độc đáo của các mối quan hệ hôn nhân vẫn nằm chính xác ở mối quan hệ sinh sản: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất. Hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất.” (St 1:28) Có sự hài hòa tính đến thứ bậc của sinh vật, như Thánh Tôma Aquinô đã giải thích trong De Veritate q. 20 và Thánh Gioan Phaolô II trong tác phẩm “Love and Responsibility” – Tình Yêu và Trách Nhiệm, được viết trước khi ngài trở thành giáo hoàng.
Mỗi mối quan hệ là duy nhất. Mọi mối quan hệ đều quý giá. Khi một người hiểu được tính độc đáo này của mỗi mối quan hệ, người đó có thể cởi mở với nhiều mối quan hệ cá nhân khác nhau với nhiều người và không ghen tị với những gì họ chia sẻ với người khác bởi vì những gì mỗi người chia sẻ với người khác không thể lặp lại.
- SỰ NHẬP THỂ NƠI THÁNH ĐỊA BỊ PHÂN CHIA
Chúa Kitô là Đấng Trung Gian, là “người bắc cầu” giữa Thiên Chúa và Con Người. Ngài “quan sát mọi thứ,” là muối của đất, đem lại “hương vị” và ý nghĩa cho mọi thứ bằng cách hy sinh chính mình Ngài, bằng cách “hiến dâng” chính mình một cách thánh thiện, do đó hy sinh có nghĩa là sacrum facere – dâng hiến điều gì đó thánh thiêng thay mặt cho người khác. Tình yêu của Ngài hiệp nhất nhưng cũng phân biệt với những người liên quan. Có sự rõ ràng trong sự hiện hữu và trong hành động với Chúa Kitô. Ngài thực sự mặc khải cho chúng ta Thiên Chúa và Con Người, như “Gaudium et Spes” (số 22) nhấn mạnh.
Những sự thật này ngày càng rõ ràng hơn đối với tôi khi tôi tới Thánh Địa, từ Giêrusalem ở Israel đến Belem ở Palestine, đến Nadarét ở Galilê. Họ liên tục thúc giục tôi mỗi khi tôi nói chuyện với một Kitô hữu, nghe thấy những đau khổ mà họ phải trải qua trong thời điểm căng thẳng này. Tuy nhiên, đó là nỗi đau có ý nghĩa sâu sắc, sự hy sinh thực sự, không giống như hầu hết những nỗi đau vô nghĩa và thiếu phương hướng mà tôi phải đối mặt trong một xã hội thế tục như Âu châu thời hiện đại.
Lúc đầu, thật thú vị khi chứng kiến rất nhiều tôn giáo với ba cách thể hiện tôn thờ Thiên Chúa khác nhau, nhưng cũng thật khó chịu khi có cảm giác căng thẳng mạnh mẽ, thiếu tình yêu thương. Làm sao việc tôn kính Thiên Chúa không đem lại tình yêu? Đó là những giả định mà chúng ta có với tư cách là một tôn giáo tin chắc rằng Thiên Chúa là tình yêu – Deus caritas est.
Trong Thánh Lễ tôi cử hành ở Giêrusalem, các mảnh ghép lại với nhau. Tôi đã ở nơi đã từng là Golgotha, nơi hòn đá bị loại bỏ trở thành đá tảng góc tường, trước bức tranh khảm Chúa Giêsu bị đặt trên Thập Giá tại mặt đất khi Đức Mẹ nhìn thẳng lên Ngài với nỗi đau buồn. Đức Mẹ đại diện cho những nỗi buồn không phải là vết thương bởi vì Mẹ chấp nhận tất cả những gì xảy ra trên con đường của Mẹ vì vinh quang lớn hơn của Chúa. Mẹ không chống cự. Việc chống lại ý Chúa như vậy chỉ gây thương tích. Mẹ từ bỏ chính mình theo ý Chúa. Mẹ tự nguyện tuân theo ý Chúa Cha, cũng như Chúa Giêsu, Đấng sẵn sàng vác Thập Giá như hy tế cuối cùng để kết hợp Con Người với Thiên Chúa và Thiên Chúa với Con Người, với mỗi cá nhân. Ý nghĩa của Mầu Nhiệm Nhập Thể đã hoàn tất trước mắt tôi khi tôi hiểu được sự hoàn hảo của điều đó trong Hy Tế Thập Giá, Nhịp Cầu giữa mọi người và Thiên Chúa.
Khi tôi mạo hiểm đến Bức Tường phía Tây để thăm Đền Thờ, tôi có cảm giác mình đang bước vào lãnh thổ của một tôn giáo khác. Các giới hạn được đăng tải khi họ phải vào không gian dành riêng cho Nhà thờ Hồi giáo Omar. Chính ở đây ý nghĩa Sự Nhập Thể, Sự Chết và Sự Phục Sinh của Chúa chúng ta thực sự có ý nghĩa bởi vì trong khi người ta cảm nhận được sự chia cách, giới hạn, người ta cũng cảm nhận được sự thiếu hiệp nhất và tình yêu trong bối cảnh mà người nào nghĩ về Sự Nhập Thể cũng mong đợi từ một bối cảnh tôn giáo.
Sự Nhập Thể kết hợp Thiên Chúa với Con Người và Con Người với Thiên Chúa là việc tìm cách hợp nhất những người khác biệt, nhưng không mâu thuẫn. Theo định nghĩa, chúng ta biết rằng Ngôi Vị là một “thực thể cá nhân có lý trí” trong các tác phẩm của Boethius về Chúa Ba Ngôi. Một con người, dù là thần thánh, thiên thần hay con người đều là một cá nhân. Một người không phải là một người khác. Những giới hạn cá nhân như vậy được xác định rõ ràng theo định nghĩa về Ngôi Vị Thiên Chúa. Chúa Cha không là Chúa Con, Chúa Con không là Chúa Cha, và Chúa Thánh Thần cũng vậy. Ai mặc khải điều này cho chúng ta ngoài Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người nhập thể? Ngài làm điều đó một cách kín đáo, như chúng ta đã chứng kiến ở Nadarét, một thành phố nhỏ, nơi người ta thực sự hiểu được tại sao Nathanael lại hỏi Chúa: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1:46) Nó không thể hiện bất cứ điều gì phi thường, nhưng bản chất của ân sủng cũng vậy, một thực thể định tính hoặc sự ngẫu nhiên làm thay đổi bản chất mà nó tiếp xúc. Ân sủng hoạt động như muối. Chúng ta hầu như không nhìn thấy nó nhưng nó làm thay đổi mùi vị của những gì chúng ta ăn.
Điều hấp dẫn nhất về trải nghiệm ở Thánh Địa là thời gian. Nó diễn ra sau Lễ Chúa Ba Ngôi và Lễ Mình Máu Thánh Chúa trước Lễ Thánh Tâm. Một mặt, tôi suy ngẫm về tính độc đáo của mỗi Ngôi Vị, của mỗi mối quan hệ. Mặt khác, tôi suy ngẫm về chiều sâu của tình yêu thiêng liêng được thể hiện qua Bí tích Thánh Thể và Thánh Tâm, thực sự là muối của đất đem lại hương vị cho kiến thức của chúng ta về cuộc sống. Bản chất của món quà cao quý nhất của Chúa Thánh Thần là sự khôn ngoan, loại “kiến thức ngon lành,” vì tình yêu thương trong đó.
Lễ Thánh Tâm xuất hiện trong lịch sử vào năm 1681, bảy năm trước Cách Mạng Vinh Quang đưa gia đình Stuart ra khỏi chế độ quân chủ Anh và khiến nước Anh chính thức theo đạo Tin Lành, và 108 năm trước Cách Mạng Pháp phá vỡ mối liên kết này với tổ quốc bằng cách giết chết người đứng đầu tổ quốc, vị vua Công giáo được xức dầu của Pháp. Chỉ có tình yêu rung động của Thiên Chúa, được thể hiện trong chiều sâu và chiều rộng siêu phàm của Thánh Tâm mà chúng ta đọc trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, chương 3, mới có thể cứu được một thế giới hiện đại đang rất phân mảnh, cố tình làm ngơ cội nguồn là Chúa Cha và phương hướng của nó.
Tôi đã lấy phụ đề của bài phản ánh ngắn này của giáo sư Donald DeMarco. Tại một thời điểm, ông viết về sự phân mảnh trong một nền giáo dục quá chuyên biệt: “Chuyên môn hóa, đặc biệt là theo đuổi khoa học và kỹ thuật, có sự tương đồng đáng kinh ngạc với sự chuyên môn hóa ở động vật. Mỗi loài động vật đều tiến hóa theo các hướng phát triển chuyên môn hóa cao nhằm mục đích trở nên thích nghi phù hợp với các nhiệm vụ cụ thể giúp bảo đảm sự sinh tồn của nó… Tuy nhiên, giáo dục con người đặc biệt nhằm mục đích phát triển con người toàn diện bằng cách cung cấp cho con người kiến thức chung và tổng quát.” (Donald de Marco, The Incarnation in a Divided World, trang 56)
Khi gặp những con người bối rối trên đường phố, người ta không thể không tìm thấy sự nghỉ ngơi trong Chúa Kitô Cứu Thế, Đấng là Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và Con Người, giữa Con Người và Thiên Chúa, giữa Con Người và Con Người. Do đó, thần học đóng vai trò cơ bản trong việc đưa ra những phân biệt thích hợp nhằm đoàn kết mọi người bằng cách đem lại ý nghĩa cho Chân, Thiện, Mỹ. Đó là ngành khoa học cao nhất đã thống nhất các ngành học trong các trường đại học được thành lập vào thời Trung Cổ.
Nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa sâu xa của Khải Huyền và việc nghiên cứu nó trong thần học, chúng ta không thể ngạc nhiên rằng chiến tranh vẫn tiếp diễn không ngừng. Nếu chúng ta không giảng dạy theo một hình thức phù hợp với sự hiệp thông giữa các bộ môn, tìm kiếm điểm chung, chúng ta không thể ngạc nhiên trước sự nhầm lẫn và hận thù ngày càng tăng mà chúng ta thấy trong khuôn viên trường đại học. Người ta chỉ cần nghĩ đến những gì Thánh Athanasiô đã viết trong tác phẩm “De Incarnatione” (Nhập Thể) của ngài. Đối mặt với lời buộc tội của ngoại giáo rằng vẫn còn sự ác sau khi Chúa Kitô đến, Thánh Athanasiô trả lời rằng nếu Chúa không đến thì chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Cái ác sẽ tiêu diệt chúng ta nếu không có Chúa Kitô.
Chúa thực sự là chiếc đệm yêu thương giúp chúng ta không bị tách biệt đến mức rơi vào hận thù như địa ngục. Chúa chúng ta và lời dạy của Ngài về sự tha thứ, về sự thật và công lý, về lòng cao thượng và nhân đức sâu sắc, rõ ràng là giải pháp cho các vấn đề của chúng ta hôm nay và mãi mãi.
FRANCESCO GIORDANO, STD
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)