ĐỈNH ĐỒI THƯƠNG XÓT
Nắng vàng nhuộm cả hoàng hôn
Biệt ly mẫu tử, đoạn trường ai gây?
Đỉnh đồi thương xót là đây
Giêsu chịu chết cứu loài tội nhân
Không gì sầu thảm hơn cuộc chia ly, nhất là cuộc chia ly đó là khoảng cách sinh tử của Mẫu Tử tình thâm, ở đây còn có sự chia ly của tình nghĩa Thầy Trò. Nỗi buồn thật khôn tả!
Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày phủ màu tím rịm, ngày u buồn của những người mang danh Kitô hữu. Tuy nhiên, trong nỗi buồn “đậm đặc” ấy lại chứa đầy ắp niềm hy vọng để bước qua cửa ải sự chết và hân hoan tiến vào Miền Vĩnh Sinh trong tiếng ca vang Alleluia. Và điều này hoàn toàn chắc chắn!
Cách nói “Thứ Sáu Tuần Thánh” của Việt ngữ không lột tả được thâm ý như Anh ngữ: Good Friday – Thứ Sáu Tốt Lành. Nhưng người Đức gọi Thứ Sáu Tuần Thánh là Karfreitag, nghĩa là “ngày đau buồn” (tiếp đầu ngữ Kar nghĩa là than khóc, sầu khổ). Thứ Sáu là “ngày chết chóc”, ngày xui xẻo, ảm đạm và thê thảm, thế mà lại được coi là Ngày Tốt Lành, thật là kỳ diệu biết bao!
Đã đành và minh nhiên là chúng ta cũng đã và đang góp phần bán đứng Đức Kitô, nhẫn tâm đóng đinh giết chết Chúa Giêsu nhiều lần qua việc những lần phạm tội, hằng ngày chúng ta còn nỡ lòng đóng đinh nhau bằng nhiều loại đinh: Chỉ trích, gièm pha, khích bác, phe cánh, ghen ghét, đố kỵ, áp bức, bóc lột,… Trong các loại “đinh” đó, có đinh gỉ sét, có đinh sắc bén, có đinh dài thoòng, có đinh xoắn,… với rất nhiều kích cỡ khác nhau.
Quả thật là không hề dễ dàng nhổ ra các loại đinh đó một khi chúng được “đóng” vào ai đó! Có lẽ vì vậy mà khi thấy các phụ nữ Giê-ru-sa-lem khóc thương Ngài, Chúa Giêsu dừng lại với cây Thập Giá trên vai và nói thật lòng với họ: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23:28). Và đó cũng chính là lời Chúa Giêsu nhắn nhủ mỗi chúng ta hôm nay. Thật vậy, đừng tổ chức đám tang cho Chúa Giêsu mà hãy làm đám tang cho chính mình, đừng lo phô trương vẻ đạo đức bình dân bề ngoài mà coi thường phần nội tâm chính yếu!
Trước đó, Chúa Giêsu đã từng xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Chính điều này đã được Ngài chứng minh bằng cái chết bi hùng vào chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, chính xác giờ thọ hình là 3 giờ chiều trên Đồi Sọ vào ngày 3 tháng 4 năm 33 (sau công nguyên). Thời điểm và ngày tháng Chúa Giêsu chịu chết đã được Tạp chí Địa Chất Quốc tế thực hiện cuộc nghiên cứu để xác định “ngày giỗ” của Chúa Giêsu. Cuộc nghiên cứu này dựa vào nền tảng Phúc Âm, đồng thời kết hợp với các tài liệu về địa chất và thiên văn học, các nhà nghiên cứu đã đủ cơ sở để xác định như vậy.
Yêu thương và thương xót có mức độc chăng? Và thế nào là mức độ yêu thương? Mức độ yêu là YÊU VÔ HẠN, yêu như điên, yêu phát khùng, yêu cuồng nhiệt, yêu đến nỗi bị coi là dại dột, đó là si tình. Chuyện đời có mối tình của Romeo va Juliet của văn hào Shakespeare (1582-1616, Anh quốc), Việt Nam có mối tình Lan và Điệp, còn văn hào Victor Marie Hugo (1802-1885, Pháp quốc) yêu say đắm cô hàng xóm Adele Foucher nhưng bị mẹ cấm, sau khi mẹ mất, ông đã kết hôn với Adele. Tuy có vợ rồi nhưng ông lại “phải lòng” cô Juliette Drouet, và Juliette Drouet đã viết cho ông khoảng 1.700 lá thư tình. Ở đây chỉ muốn nói tới khối tình si của những trái tim yêu hết mình mà thôi. Dày dạn kinh nghiệm tình trường, Victor Hugo đã kết luận: “Chết cho tình yêu là sống cho tình yêu”.
Chúa Giêsu cũng là người si tình thứ thiệt, độc nhất vô nhị, một người điên dại vì yêu, và Ngài mệnh danh là Người Tôi Trung mà ngôn sứ Isaia đã đề cập: “Này đây, Người Tôi Trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng. Cũng như bao kẻ đã sửng sốt khi thấy Tôi Trung của Ta mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa, cũng vậy, nó sẽ làm cho muôn dân phải sững sờ, vua chúa phải câm miệng, vì được thấy điều chưa ai kể lại, được hiểu điều chưa nghe nói bao giờ” (Is 52:13-15). Người Tôi Trung có những động thái trái ngược rất lạ lùng, chúng ta không thể nào hiểu nổi. Người ta có si mê thì cũng si mê người đẹp, người khôn, người ngoan, người tài, người giỏi, đằng này Chúa Giêsu lại si mê kẻ không ra gì – tức là chính tội nhân xấu xa, kẻ đó là mỗi chúng ta!
Thật lạ lùng là chính Người Tôi Trung ấy lại “lớn lên tựa chồi cây trước Nhan Thánh, như khúc rễ trên đất khô cằn, chẳng còn dáng vẻ, chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Is 53:1-2). Không chỉ vậy, Người Tôi Trung ấy còn “bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật, như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Is 53:3). Đâu ai ngờ sự thật là “chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề” (Is 53:4). Đây là “điểm nóng” để chúng ta phải tự chấn chỉnh cách nhìn của mình đã và đang dành cho tha nhân.
Cuộc đời của Người Tôi Trung là Bản Trường Ca Đau Khổ, là Liên Khúc Bi Tráng Ca. Thật vậy, họa vô đơn chí, đau khổ cứ chồng chất lên đau khổ, theo cách nhìn phàm tục thì đúng là cuộc chiến bại ê chề, thê thảm.
Chính Người Tôi Trung “đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm, đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành” (Is 53:5). Trong tình trạng Người Tôi Trung bị coi là te tua tơi tả như vậy thì “tất cả chúng ta lạc lõng như chiên cừu, lang thang mỗi người một ngả, nhưng Đức Chúa đã đổ trên đầu người mọi tội lỗi của tất cả chúng ta”, để rồi Người Tôi Trung tiếp tục “bị ngược đãi, cam chịu nhục, nhưng chẳng mở miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53:6-7).
Mặc dù bị nhục nhã ê chề đến vậy mà Người Tôi Trung vẫn chưa yên thân: “Người đã bị ức hiếp, buộc tội, rồi bị thủ tiêu. Dòng dõi của người, ai nào nghĩ tới? Người đã bị khai trừ khỏi cõi nhân sinh, vì tội lỗi của dân, người bị đánh phạt. Người đã bị chôn cất giữa bọn ác ôn, bị mai táng với người giàu có, dù đã chẳng làm chi tàn bạo và miệng không hề nói chuyện điêu ngoa” (Is 53:8-9). Tột cùng đau khổ. Quả thật, kinh hãi quá, phàm nhân chúng ta không thể tưởng tượng nổi và không thể đủ sức chịu đựng như vậy!
Nhưng đó là Thánh Ý Thiên Chúa: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53:10-11). Ý Chúa đã vậy, đáng khâm phục là đức vâng lời của Người Tôi Trung. Đúng là “vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9).
Cả một bài đọc dài với đủ dạng đau khổ như thế mà không thấy câu chữ nào vô nghĩa, người nghe cũng không cảm thấy nhàm chán. Kỳ diệu quá sức! Nhưng câu cuối cùng thấy có màu “sáng” nhất: “Vì thế, Ta sẽ ban cho nó muôn người làm gia sản, và cùng với những bậc anh hùng hào kiệt, nó sẽ được chia chiến lợi phẩm, bởi vì nó đã hiến thân chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra, nó đã mang lấy tội muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi” (Is 53:12). Và đó là hệ lụy tất yếu cho những người-tôi-trung-ngay-khi-gian-khổ.
Người Tôi Trung luôn một lòng tin tưởng Thiên Chúa, dù gặp bao trắc trở nhưng vẫn trung tín và kiên tâm cầu nguyện, như Thánh Vịnh gia thổ lộ: “Con ẩn náu bên Ngài, lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ. Bởi vì Ngài công chính, xin giải thoát con” (Tv 31:2). Ngay cả cái chết cũng không tách Người Tôi Trung khỏi lòng mến yêu Chúa: “Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31:6).
Được biết rõ ràng là mình chỉ “nên trò cười cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích đều kinh hãi, tránh xa, bị lãng quên như kẻ chết không người tưởng nhớ, hoá thành đồ hư vất bỏ” (Tv 31:12-13), nhưng Người Tôi Trung “vẫn tin tưởng nơi Chúa, vẫn can đảm thân thưa thưa: ‘Ngài là Thượng Đế của con. Số phận con ở trong tay ngài. Xin giải thoát con khỏi tay địch thủ, khỏi người bách hại con. Xin toả ánh tôn nhan rạng ngời trên tôi tớ Ngài đây, và lấy tình thương mà cứu độ’ ” (Tv 31:15-17). Và như Người Tôi Trung, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi mỗi chúng ta: “Hỡi mọi người cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!” (Tv 31:25). Hôm nay là dịp thuận tiện, là ngày tốt, là thời điểm hợp lý để chúng ta thể hiện điều đó.
Thánh Phaolô giải thích và chia sẻ kinh nghiệm tâm linh: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin. Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4:14-16). Qua đó, chúng ta thấy Đức Giêsu đã mặc xác phàm yếu đuối như chúng ta để đồng lao cộng khổ với chúng ta, đặc biệt là để động viên chúng ta vượt qua mọi “ngưỡng” đau khổ, nhất là vượt qua cửa ải sự chết.
Tiếp tục phân tích, Thánh Phaolô cho biết thêm: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Bài học quá đắt giá, nhưng cái gì càng đắt giá thì càng giá trị cao!
Hôm nay, Bài Thương Khó là đoạn Phúc Âm buồn thảm nhất trong Kinh Thánh. Người Tôi Trung Đau Khổ Giêsu là nhân vật độc nhất vô nhị, nổi tiếng nhất trong lịch sử xưa nay và đến mãi tận thế. Càng ngày người ta càng phải công nhận, bằng cách này hay cách khác, ngay cả những người cố ý tỏ ra không công nhận nhưng thực ra trong thâm tâm họ vẫn công nhận.
Trình thuật Phúc Âm Ga 19:1-42 cho chúng ta biết về “chuyến đau khổ” của Chúa Giêsu bắt đầu từ Vườn Dầu, tức là Ghết-sê-ma-ni.
Sau Bữa Tiệc Ly, Ngài đi ra cùng với các môn đệ sang bên kia suối Kít-rôn, vào một thửa vườn. Giu-đa cũng biết nơi này, vì lâu nay Thầy trò thường quy tụ ở đó.
Ngay đêm Thứ Năm, Giu-đa tới đó và dẫn một toán quân với đám thuộc hạ của các thượng tế cùng nhóm Pha-ri-sêu. Họ mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giêsu biết mọi việc sắp xảy đến cho mình, nên tiến ra và hỏi: họ tìm ai. Họ nói ngay là tìm Giêsu Na-da-rét. Ngài nhận ngay: “Chính tôi đây”. Mới nghe vậy, họ liền lùi lại và ngã xuống đất. Ngài hỏi lại, họ vẫn nói là tìm Giêsu Na-da-rét. Ngài vẫn nhận mình là người họ tìm, chấp nhận cho họ bắt Ngài nhưng Ngài yêu cầu không bắt bất cứ ai đi với Ngài. Điều này ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha đã ban cho con, con không để mất một ai”.
Ông Phêrô có sẵn thanh gươm liền tuốt ra và chém đứt tai phải của Man-khô, đầy tớ của vị thượng tế. Ngài bảo ông Phêrô xỏ gươm vào bao, và giải thích rằng Ngài sẵn sàng uống chén mà Chúa Cha đã trao. Họ bắt Ngài và dẫn Ngài đến ông Kha-nan, nhạc phụ của thượng tế Cai-pha. Chính Cai-pha đã đề nghị với người Do-thái là “nên để một người chết thay cho dân thì hơn”. Một lời đề nghị ích kỷ và bất công vô cùng!
Mặc dù bị chất vấn và tra khảo, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói thẳng và nói thật chứ không run sợ trước thế lực của họ, có người vả vào mặt Ngài, nhưng Ngài vẫn hỏi vặn lại: “Nếu tôi nói sai, anh chứng minh xem sai ở chỗ nào; còn nếu tôi nói phải, sao anh lại đánh tôi?” (Ga 18:23). Tất nhiên họ chẳng nói lại được gì, mà chỉ “cả vú lấp miệng em”. Rồi ông Kha-nan cho giải Ngài đến thượng tế Cai-pha trong khi Ngài vẫn bị trói.
Trong khi đó, ở ngoài sân, ông Phêrô bị người ta phát hiện thuộc nhóm của Chúa Giêsu nên ông sợ và chối thẳng thừng, không chỉ một mà tới ba lần. May có tiếng gà gáy sáng, và ông đã ăn năn.
Người Do-thái lại điệu Chúa Giêsu từ nhà ông Cai-pha đến dinh tổng trấn Phi-la-tô khi trời vừa mới sáng. Họ không vào dinh vì sợ bị nhiễm uế mà không ăn lễ Vượt Qua được. Bề trong không lo mà chỉ lo bề ngoài, thật là tồi tệ!
Ông Phi-la-tô hỏi đủ điều nhưng Ngài chỉ im lặng. Ông Phi-la-tô cũng nhận thấy Ngài không có tội gì và có ý phóng thích Ngài, nhưng ông ta vẫn không dám làm theo tiếng nói lương tâm vì ngại với đám đông, sợ mất chiếc ghế chức tước và quyền lực. Nghe Chúa Giêsu nói về sự thật, ông ta còn “giả nai” hỏi lại: “Sự thật là gì?” (Ga 18:38). Bà vợ bảo ông ta đừng nhúng tay vào vụ án xử Chúa Giêsu, ông ta đi lấy nước rửa tay, ý ông ta muốn chứng tỏ mình vô can.
Chắc hẳn chúng ta cho rằng ông Phi-la-tô đúng là một kẻ hèn nhát, coi thường công lý và làm ngơ nỗi khổ của người khác, thế nhưng chính chúng ta cũng đã từng có những lần hèn nhát y như ông ta, đó là khi chúng ta im lặng trước bất công của tha nhân. Ai sao thì sao, tôi bình an là được. Động thái của ông Phi-la-tô là lời cảnh báo đối với mỗi chúng ta là phải cảnh giác trong mỗi động thái của mình, nhất là đối với những gì liên quan sự thật và công lý.
Vào mỗi dịp lễ Vượt Qua, và theo tục lệ của người Do-thái, người ta thường tha một phạm nhân nào đó. Người ta hùa nhau xin tha cho tướng cướp khét tiếng Ba-ra-ba, nhưng lại xin giết chết Đức Giêsu. Trước đó không lâu, người ta mới tung hô “vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến” ở Thành Giê-ru-sa-lem, thế mà giờ đây lại quyết xin đóng đinh người mà họ đã tôn vinh.
Không biết xử trí ra sao, ông Phi-la-tô liền truyền đem Đức Giêsu đi và đánh đòn Ngài. Họ hành hạ Ngài với những kiểu dã man nhất. Sau đó, ông Phi-la-tô dẫn Chúa Giêsu ra ngoài cho người ta thấy Ngài thê thảm thế nào với vòng gai trên đầu mà thôi kết án Ngài. Thế nhưng họ vẫn không chút mủi lòng, cho rằng Ngài lộng ngôn khi nhận mình là Con Thiên Chúa. Họ càng thấy Ngài bị hành hạ tơi tả thì họ càng vui sướng: “Đóng đinh nó vào thập giá!”.
Nghe lời đó, ông Phi-la-tô càng sợ hơn nữa. Sơ gì? Sợ mất chức, mất chức thì mất bổng lộc và mất quyền. Ông ta bảo ông có quyền tha và có quyền đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá. Nhưng Đức Giêsu nói ngay: “Ông không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng ban cho ông. Vì thế, kẻ nộp tôi cho ông thì mắc tội nặng hơn”. Ông Phi-la-tô tìm cách tha Ngài nhưng vẫn không dám thực hiện vì bị áp lực của đám đông.
Họ bắt Ngài tự vác lấy thập giá đi đến Đồi Sọ, tiếng Híp-ri là Gôn-gô-tha. Cùng chung hình phạt đóng đinh vào thập giá với Ngài là hai tên gian phi khét tiếng. Phía trên thập giá có ghi: “Giêsu Na-da-rét, Vua dân Do-thái” (*). Vô tình mà họ đã phải công nhận Chúa Giêsu là Vua dân Do-thái. Bảng đó được ghi bằng đa ngữ: Tiếng Híp-ri, La-tinh và Hy-lạp. Các thượng tế của người Do-thái muốn ghi kiểu khác, nhưng ông Phi-la-tô không chiều theo ý họ. Đó là ý Chúa vậy!
Từ trên Thập Giá, Đức Giêsu trao phó Đức Mẹ cho ông Gioan chăm sóc, và xin Đức Mẹ nhận chàng trai Gioan làm con. Nghe những lời trăn trối như vậy thì hẳn ai cũng phải động lòng. Sau đó, Đức Giêsu biết là mọi sự đã hoàn tất. Ngài kêu: “Tôi khát!”. Nghe vậy mà người ta lại nhẫn tâm lấy miếng bọt biển có thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Ngài. Nhắp xong, Đức Giêsu nói: “Thế là đã hoàn tất! – Tetelestai!”. Rồi Ngài gục đầu xuống và trao Thần Khí.
Lời kêu khát của Chúa Giêsu nhắc chúng ta về niềm khát khao của Ngài dành cho chúng ta là chúng ta phải cố gắng NÊN THÁNH, nhắc nhở chúng ta yêu mến THÁNH THỂ, đồng thời cũng nhắc nhở chúng ta đừng làm ngơ trước những nỗi khát khao của tha nhân – nhất là đối với những CON NGƯỜI HÈN MỌN luôn ở bên chúng ta hằng ngày.
Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày đại lễ sa-bát. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh cho họ mau chết để rồi lấy xác xuống cho kịp trước khi đêm xuống. Họ đánh giập ống chân hai người cùng bị đóng đinh với Đức Giêsu. Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Ngài đã chết, họ không đánh giập ống chân Ngài. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Ngài, tức thì, MÁU cùng NƯỚC chảy ra. Tứ đó, Nguồn Suối Lòng Thương Xót tuôn chảy mãi cho đến tận thế để ai nhìn lên Ngài và thành tâm tín thác thì sẽ được hưởng Ơn Cứu Độ.
Sau đó, Đức Giêsu được hạ xác xuống khỏi Thập Giá, được đưa đi an táng theo tục lệ chôn cất của người Do-thái tại một thửa vườn. Nỗi buồn “dừng lại” nhưng vẫn âm ỉ trong lòng mọi người. Tuy nhiên, Ngày Thứ Sáu Buồn Thảm này lại chính là Ngày Thứ Sáu Tốt Lành, ngày hướng về Cõi Trường Sinh. Chúa Giêsu chịu đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, Ngài chịu thua cuộc để chúng ta chiến thắng, Ngài chịu chết để chúng ta được sống. Chúng ta tưởng niệm cái chết của Ngài nhưng không phải là để thương xót Ngài mà là thương xót chính số phận của chúng ta, nhờ đó mà cố vượt qua chính mình hằng ngày.
Quả thật là niềm hạnh phúc vô tận đối với chúng ta – những tội nhân khốn nạn, bởi vì Thánh Phaolô đã xác định: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa” (2 Cr 5:19). Thứ Sáu Tuần Thánh là “cột mốc” đánh dấu lời hứa đó, như Thánh Vịnh gia đặt vấn đề: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Một câu nghi vấn nhưng là một cách xác định. Thật là đại phúc cho chúng ta. Tạ ơn Chúa, Deo Gratias!
Tuy nhiên, chúng ta không được “dừng chân” ở đó, mà phải cố gắng lên tới Đỉnh Đồi Thương Xót cùng với Đức Giêsu Kitô, tức là phải chết vì yêu thương và vì thương xót. Như vậy mới khả dĩ giải nghĩa hết chữ yêu.
Lạy Thiên Chúa Cha, xin thương xót và tha thứ tội nhân con. Lạy Thiên Tử Giêsu, Đấng Cứu Thế, con cảm tạ Ngài đã chịu chết để cứu chuộc nhân loại, xin giúp con nhổ bật những chiếc đinh gỉ sét mà chính con đóng vào chân tay Ngài và đóng vào cuộc đời tha nhân. Xin Chúa ban ơn dồi dào để mọi người luôn sống đúng bổn phận của mình, và xin Ngài đặc biệt thương xót Việt Nam bé nhỏ này. Con chân thành và tha thiết cầu xin nhân danh Người Tôi Trung Đau Khổ là Đấng Cứu Thế Giêsu Kitô. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) INRI: Iēsus Nazarēnus, Rēx Iūdaeōrum (tiếng Latin), Ο Ιησούς από τη Ναζαρέτ, ο βασιλιάς των Εβραίων (tiếng Hy Lạp – INBI), תשוועמנצרת, מלךהיהודים (tiếng Do Thái), Jesus the Nazarene, King of the Jews (tiếng Anh), Jésus le Nazaréen, le Roi des Juifs (tiếng Pháp).