Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin mừng Thứ Năm Tuần Thánh của Trầm Thiên Thu

Suy niệm Tin mừng Thứ Năm Tuần Thánh của Trầm Thiên Thu

Luyến thương

(Thứ Năm Tuần Thánh, năm A)

(Nam A - ThuNamTuanThanh) LuyenThuongTam Nhật Vượt Qua là ba ngày cao điểm của Phụng vụ, với các sắc màu khác nhau, khởi đầu là Thứ Năm Tuần Thánh mang sắc màu Vui, tiếp theo là Thứ Sáu Tuần Thánh mang sắc màu Thương, và từ đêm Thứ Bảy Tuần Thánh tới Chúa Nhật Phục Sinh mang sắc màu Mừng.

Thứ Năm Tuần Thánh là ngày Vui, buổi sáng là Thánh Lễ Truyền Dầu, buổi chiều là Thánh Lễ kỷ niệm Chúa Giêsu thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, cũng là ngày tưởng nhớ Bữa Tiệc Ly. Trong niềm vui có lẫn nỗi buồn, tạo cảm giác rất khó tả, đặc biệt là trong đó có sự quyến luyến của cuộc chia tay.

Thứ Năm Tuần Thánh còn là ngày Chúa Giêsu dạy bài học yêu thương độc đáo, vì Ngài không chỉ dạy bằng lời nói mà dạy bằng HÀNH ĐỘNG cụ thể, chứng minh lời Ngài đã nói: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20:28; Mc 10:45). Yêu thương và Phục vụ là hai “điểm nhấn” của ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Ai yêu thương thì sẵn sàng phụng vụ, ai phục vụ là chứng tỏ yêu thương. Mối tương tác tất yếu tuyệt vời!

Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến chức vụ phục vụ của mình là “tôi tớ của các tôi tớ của Chúa” (Servus Servorum Dei). Ngài không tự xưng là “chúng tôi” như các giáo hoàng trước mà dùng đại danh từ “tôi”. Ngài chọn làm một lễ tấn phong đơn giản chứ không rườm rà, và không đội mũ giáo hoàng khi đảm nhiệm. Là giáo hoàng nhưng ngài không muốn được phục vụ, thể hiện đức khiêm nhường. Khi nhậm chức giáo hoàng, các hồng y quỳ gối trước ngài để tuyên hứa và hôn nhẫn, nhưng ngài đứng dậy khi ĐHY Stefan Wyszyński (người Ba Lan) quỳ gối, ngăn hồng y này hôn nhẫn và ôm hồng y này. ĐGH Phanxicô cũng đang thể hiện rõ nét khiêm nhường, nghèo khó, và cũng không muốn ai phục vụ mình. Đó là các tấm gương sáng về nhân đức khiêm nhường và tinh thần phục vụ.

Ngày xưa, Đức Chúa phán với ông Mô-sê và ông A-ha-ron trên đất Ai-cập: “Tháng này, các ngươi phải kể là tháng đứng đầu các tháng, tháng thứ nhất trong năm. Hãy nói với toàn thể cộng đồng Ít-ra-en: Mồng mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con thì chung với người hàng xóm gần nhà mình nhất, tuỳ theo số người. Các ngươi sẽ tuỳ theo sức mỗi người ăn được bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng” (Xh 12:1-8).

Dân nào cũng có những phong tục khác nhau theo văn hóa của mình. Với dân Chúa, cách ăn uống cũng khác, họ làm theo lời Chúa căn dặn: “Các ngươi phải ăn thế này: lưng thắt gọn, chân đi dép, tay cầm gậy. Các ngươi phải ăn vội vã, Đó là lễ Vượt Qua mừng Đức Chúa” (Xh 12:11).

Người Việt không có tục lệ như vậy, nhưng vẫn không thấy lạ. Chiên hay dê một tuổi là con vật còn nhỏ, còn toàn vẹn và vô tư như đứa trẻ, máu của con vật tinh tuyền được bôi lên cửa làm dấu hiệu để gia đình đó được thoát tai họa: “Đêm ấy Ta sẽ rảo khắp đất Ai-cập, sẽ sát hại các con đầu lòng trong đất Ai-cập, từ loài người cho đến loài thú vật, và sẽ trị tội chư thần Ai-cập: vì Ta là Đức Chúa. Còn vết máu trên nhà các ngươi sẽ là dấu hiệu cho biết có các ngươi ở đó. Thấy máu, Ta sẽ vượt qua, và các ngươi sẽ không bị tai ương tiêu diệt khi Ta giáng hoạ trên đất Ai-cập. Các ngươi phải lấy ngày đó làm ngày tưởng niệm, ngày đại lễ mừng Đức Chúa. Qua mọi thế hệ, các ngươi phải mừng ngày lễ này. Đó là luật quy định cho đến muôn đời” (Xh 12:12-14).

Được báo trước về cách tránh tai họa như vậy thì thật là đại phước. Ai không làm theo là cố chấp, ai làm theo là biết vâng phục và tất nhiên được hưởng lợi ích. Đối với Thiên Chúa, chúng ta chẳng là gì cả, nhưng chúng ta vẫn không ngừng được Ngài ban tặng biết bao hồng ân. Tác giả Thánh Vịnh cũng đã có kinh nghiệm đó nên tự hỏi và tự quyết định: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Con xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” (Tv 116:12-13). Vâng, chắc chắn không lễ vật nào xứng đáng bằng những gì đến từ Thiên Chúa.

Tác giả Thánh Vịnh thành tâm khấn hứa: “Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người. Đối với Chúa thật là đắt giá cái chết của những ai trung hiếu với Người. Vâng lạy Chúa, thân này là tôi tớ, tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:15-16). Để phù hợp với Cựu ước, Chúa Giêsu cũng đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13).

Có nhiều cách chết, chúng ta cũng phải “chết” cho nhau hằng ngày, vì mọi người đều là “người yêu” của nhau. Trong ngày trọng đại này, mỗi chúng ta hãy cùng với tác giả Thánh Vịnh thân thưa với Thiên Chúa: “Con sẽ dâng lễ tế tạ ơn và kêu cầu thánh danh Chúa. Lời khấn nguyền với Chúa, con xin giữ trọn, trước toàn thể dân Người” (Tv 116:17-18). Lòng biết ơn rất quan trọng nhưng người ta lại… thích “quên”. Vẫn còn đo gương mười người được ơn chữa lành nhưng chỉ có một người biết ơn, mà người này lại là người ngoại! (x. Lc 17:11-19).

Cũng với tâm tình tri ân, Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: ‘Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy’. Cũng thế, cuối bữa ăn, Người nâng chén và nói: ‘Đây là chén Máu Thầy, Máu đổ ra để lập Giao Ước Mới; mỗi khi uống, anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy’. Thật vậy, cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1 Cr 11:23-26).

Một điều xác định rất lạ. Chết là buồn đau, là chiến bại, là cùng đường, vậy mà lại cần loan truyền ư? Đây là loại nghịch-lý-thuận sẽ không thể hiểu nếu không có đức tin Kitô giáo. Chết không như người ta lầm tưởng, chết ngỡ như thua thiệt, là thất bại ê chề, nhưng chính cái chết lại là biên giới qua Bến Phục Sinh, là nhịp cầu tới Miền Sự Sống, là cửa ngõ vào Cõi Trường Sinh. Vô cùng kỳ diệu!

Trước khi vào Vùng Sống phải qua Cõi Chết, trước khi qua Cõi Chết phải trải nghiệm Ải Đau Khổ. Đó là loại Tam Giác đặc biệt: Tam-Giác-Sống-Chết.

Trình thuật Ga 13:1-15 cho biết: Trước lễ Vượt Qua, Đức Giêsu biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Ngài vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng. Với nhân tính, chắc hẳn Ngài cũng lưu luyến lắm, nhất là với các đệ tử đã chia ngọt sẻ bùi suốt ba năm ròng. Nhưng điều gì đến sẽ đến, cuộc vui nào cũng tàn, sum họp rồi chia ly, đó là lẽ thường ở đời thôi!

Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giêsu. Đức Giêsu biết rằng Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Ngài, Ngài bởi Thiên Chúa mà đến và sắp trở về cùng Thiên Chúa. Trong tiệc mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ, và cũng là Bữa Tiệc Ly, bữa ăn cuối cùng của Ngài trên thế gian và bữa cuối cùng đồng bàn với các môn đệ, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra và lấy khăn mà thắt lưng, rồi Ngài đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Một hành động rất lạ, chắc hẳn các môn đệ cũng chỉ thấy lạ chứ không thể biết đó là điềm báo của một người sắp chết.

Chuyện kể hôm nay là câu chuyện mà ai cũng thuộc vanh vách, dù không chính xác từng chữ. Khỏi kể lại cũng biết. Mới nghe câu đầu đã biết rõ kết thúc. Thế nhưng câu chuyện này vẫn luôn thu hút bất kỳ ai. Từ Phòng Tiệc Ly tới Vường Dầu, từ Vườn Dầu tới Dinh Cai-pha và Phi-la-tô, và từ đó tới Đồi Sọ, ai cũng biết diễn biến thế nào, thế nhưng người ta cứ nghe mãi và đọc mãi cuốn truyện đó mà không chán. Một điều rất lạ!

Một cuốn truyện hoặc một bộ phim hay tới mức nào thì người ta cũng chỉ đọc hoặc xem một lần, nhiều lắm cũng chỉ hai lần là thấy nhàm chán. Vậy mà với bộ Phúc Âm (và Kinh Thánh), người ta càng đọc càng thấy thú vị, càng nhận thấy cái mới. Tương tự, đối với Thánh Lễ cũng vậy, dù không tham dự cũng biết như thế nào. Thế mà có ai chán bao giờ đâu. Đúng là phép lạ thật!

Và câu chuyện vẫn tiếp diễn…

Khi Chúa Giêsu bưng chậu nước đến chỗ ông Phêrô, ông liền thưa: “Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?”. Nhưng Ngài bảo: “Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu”. Ông Phêrô cương quyết không để cho Thầy rửa chân cho mình, vì có đời nào lại có chuyện ngược đời như vậy được! Nhưng Ngài nghiêm giọng: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy”. Nghe vậy, ông Phêrô nói ngay: “Thế thì xin Thầy cứ rửa, không chỉ rửa chân mà rửa cả tay và đầu con nữa”. Đúng là người có bản tính “thẳng như ruột ngựa”, nghĩ sao nói vậy. Đức Giêsu bảo ông: “Ai đã tắm rồi thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!”. Thật vậy, Ngài biết ai sẽ nộp Ngài nên mới nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch”.

Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giêsu mặc áo vào, về chỗ và nói: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13:12-15). Những lời Chúa Giêsu nói nghe rất nhẹ nhàng nhưng lại có sức khiến chúng ta “nhức tai”, “buốt óc” và “nhói tim” lắm! Thật vậy, chữ Yêu Thương rất ngắn gọn, xem chừng rất đơn giản, nhưng để thực hành cho đúng ý Thầy Giêsu thì không hề đơn giản, vì vậy mà chúng ta phải cố gắng không ngừng, phải cố gắng qua từng nhịp thở vậy.

Cũng vậy, chữ Phục Vụ cũng ngắn gọn lắm, nhưng có hai vế: Phục vụ và được phục vụ. Không ai “ưa” vế thứ nhất, nhưng ai cũng thích vế thứ nhì. Bản tính con người đâu dễ “lèo lái”, do đó mà thực hiện “bổn phận phục vụ” mãi vẫn thấy “căng” lắm, thậm chí có người còn chỉ “chăm chú” làm ngược lại là “thích được người khác phục vụ”. Lạy Chúa tôi!

Được biết, tại phòng thánh của nhà dòng, Chân phước Mẹ Teresa Calcutta đã ghi lời nhắc nhở: “Xin các linh mục hãy dâng mỗi Thánh lễ như Thánh lễ đầu tiên và như Thánh lễ cuối cùng trong đời”. Đúng là ý tưởng của thánh nhân, thật là thâm thúy đầy tính tâm linh, nhưng đó cũng là lời nhắc nhở “đáng phải giật mình” lắm đấy, dù là ai – tức là cả giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân!

Bài học Yêu Thương và Phục Vụ mà Chúa Giêsu đã dạy vẫn luôn nóng bỏng ngay trong thời đại ngày nay, dù bài học đó đã được Ngài dạy từ hai ngàn năm trước. Bất kỳ ai cũng phải thuộc lòng và làm đúng từng chi tiết trong bài học này của Thầy Giêsu vậy. Yêu mến Chúa và lưu luyến Ngài thì phải thực hiện lệnh Ngài truyền, đó là điều hoàn toàn hợp lý, vì có vậy mới chứng tỏ tình yêu mà chúng ta dành cho Ngài!

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin đổi mới trái tim chúng con nên giống Chúa càng ngày càng nhiều, xin giúp chúng con say yêu Thánh Thể và Thánh Lễ để chúng con được sống dồi dào nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài, đồng thời xin giúp chúng con quyết tâm thực hiện bài học Yêu Thương và Phục Vụ đúng theo Tôn Ý Ngài. Chúng con tin thật chính Ngài là Đấng cứu độ, hằng sinh và đồng trị với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …