Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin Mừng lễ Tro 5-3-2014 của Lm PX Vũ Phan Long, ofm

Suy niệm Tin Mừng lễ Tro 5-3-2014 của Lm PX Vũ Phan Long, ofm

CÁC HÀNH VI TÔN GIÁO

Người nào làm một hành vi tôn giáo mà nhằm một phần thưởng nhân loại trần thế, thì mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu. Người nào làm vì Thiên Chúa, nghĩa là cách nhưng-không, không tìm phần thưởng, thì được ban thưởng.


Lm PX Vũ Phan Long, ofm

 

1.- Ngữ cảnh

Sau khi đã đề cập đến các quan hệ với kẻ khác (quan hệ hàng ngang: x. Mt 5,21-48), Đức Giêsu xác định cách thức đúng đắn phải theo mà thiết lập quan hệ với Thiên Chúa Cha (quan hệ hàng dọc: x. 6,1-18). Ba ví dụ về các hành vi tôn giáo được nêu ra: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Đây là ba tập tục đạo đức truyền thống của Do Thái giáo.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Nguyên tắc chung (6,1);

2) Ba việc đạo đức (6,2-6.16-18):

a) Bố thí (cc. 2-4),

            b) Cầu nguyện (cc. 5-6),

            c) Ăn chay (cc. 16-18).

Ba đoạn được kết cấu như nhau, thành hai cách song song: lệnh truyền tiêu cực – động lực – phần thưởng; lệnh truyền tích cực – động lực – phần thưởng. Các đoạn này có cùng những điểm tương phản như nhau: công khai / ẩn giấu; để người ta thấy / để Chúa Cha thấy; phần thưởng đã nhận / phần thưởng sẽ nhận từ Chúa Cha. 

Cấu trúc này khiến ta thấy ý hướng của đoạn văn không nhắm khuyến khích thực thi các việc đạo đức ấy, nhưng là đề nghị cách làm tốt.

 

3.- Vài điểm chú giải

– để cho thấy (1): Động từ theaomai có nghĩa là “trình diễn” (như diễn kịch).


– sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng 
(1): Bản văn hy-ngữ làmisthon ouk echete (thì hiện tại, chứ không phải là thì tương lai) para tô patri hymôn tô en tois ouranois, dịch sát là “anh em không có phần thưởng bên cạnh (hay: với) Cha anh em trên trời”. Thế nhưng cho đến nay, các bản dịch có thế giá đều dịch là “you will have no recompense from your heavenly Father” (NAB; xem thêm các bản dịch tiếng Anh NRSV, NIV, ESV…); Bản dịch của Nhóm Pd CGKPV dịch diễn ra, nhưng cũng cùng một nghĩa như thế, và nghĩa này hẳn là được diễn tả trong hy-ngữ bằng para tou patros (para với thuộc-cách, trong khi ở đây là para với tặng-cách). Nhưng các bản dịch tiếng Pháp dịch rất sát bản hy-ngữ là “pas de récompense auprès de votre Père qui est aux cieux” (TOB), “pas de récompense auprès de votre Père qui est dans les cieux” (BJ), “các ngươi mất công nơiCha các ngươi, Đấng ngự trên trời” (NTT), và “mercedem non habetis apud Patrem vestrum, qui in caelis est” (Nova Vg).

Trong khuôn khổ bài này, chúng tôi không thể trình bày chi tiết các lập luận, nhưng chỉ có thể giới thiệu tóm tắt. Sau khi bàn về ba hành vi công chính (bố thí, cầu nguyện và ăn chay) và cách Thiên Chúa “trả lại” (6,4.6.18), tác giả Mt quay ra đặt đối lập các của cải trần thế với của cải mà người ta tích lũy được với Thiên Chúa (x. Mt 6,19-21). Bản văn Mt 6,19-21 đặt đối lập của cải tích lũy nơi trần gian với của cải tích lũy trên trời với Thiên Chúa. Của cải trần gian hôm nay có đây, mai sẽ đi mất, nên tốt nhất hãy tích lũy kho tàng trên trời với Thiên Chúa.

Trong Cựu Ước, có quan niệm các của cải người ta thủ đắc được nhở làm các việc lành, đặc biệt nhờ việc bố thí, thì được giữ trên trời với Thiên Chúa. Sách Châm ngôn đã nói: “Thương xót kẻ khó nghèo là cho Đức Chúa vay mượn, Người sẽ đáp trả” (Cn 19,17; xem thêm 14,21.31; 28,8; 10,2; 11,4). Sách Tôbia (4,5-11; có thể so sánh Tb 12,8-9 với Mt 6) cũng cùng một chiều hướng với sách Cn. Sách Huấn ca 29,9-13 và 2 Mcb 12,4-5 cũng có một ý tưởng như thế.

Trong Tin Mừng Lc, chúng ta gặp câu chuyện ông nhà giàu: “Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó” (Lc 12,33-34). Không giống như các kho lẫm của ông nhà giàu, các túi tiền không hề cũ rách có được nhờ bố thí sẽ tồn tại sau khi chết (x. Lc 6,32-37).

Riêng với tác giả Mt, cần ghi nhận: ngài mô tả “trời” (ouranoi ở số phức) như là một nơi trữ của cải cho đến ngày cánh chung (khi Con Người trở lại, parousia). Trở lại với bản văn Mt6,1, vì echete (= anh em có) ở thì hiện tại, ta hiểu: phần thưởng vì thực thi đức công chính được tích lũy với Thiên Chúa cho tới khi cuộc tính sổ đến. Xin tạm ví với khoản lương hưu trí: ai thực thi đức công chính không phô trương thì “có” (bây giờ) một phần thưởng ở trên trời; người ấy không được rút tiền ấy vào lúc này, bởi vì tiền ấy được dành cho thời điểm chính xác thuộc tương lai. Đến đoạn kết, tác giả dùng một châm ngôn để tái khẳng định tính cao cả của kho tàng trên trời (x. 6,19-21). 


– bố thí
 (2): Eleêmosynê là phẩm chất của một người eleêmôn, người có eleos, lòng từ bi thương xót, thông cảm, đạo đức, tức đồng nghĩa với từ Híp-ri (k)hesed.


– Bọn đạo đức giả
 (2): Hypokritês có nghĩa là “diễn viên”. Người hypokritês diễn kịch, họ giả bộ chú ý đến Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ đặt trọng tâm nơi bản thân: họ tìm cách được người ta khen ngợi, thán phục.


– trả lại
 (4): Bản hy-ngữ nói trống: apodôsei, “sẽ trả lại cho người ấy” (apo hàm ý có điều gì đó ràng buộc; một món nợ). Trong ngôn ngữ thương mại, đây là việc thanh toán một hóa đơn.


– phòng 
(6): Tameion, “phòng” đây, trong ngôi nhà Paléttina, là một thứ “buồng (để thực phẩm)” thường ở dưới hầm, không có cửa sổ tức cũng không có ánh sáng (x. Is 26,20; 2 V4,33).

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Nguyên tắc chung (1)

Câu mở đầu này nối kết ch. 6 với 5,20: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn (dịch sát: “Nếu sự công chính của anh em không dồi dào hơn) các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”. Trong Kinh Thánh, từ ngữ “sự công chính” (sedeqah) được dùng để tổng hợp các tương quan của con người với Thiên Chúa, đó là sự đạo đức, tôn giáo tính, đức tin.

Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu là Người Cha (3,17; 5,16.45; 6,1.4.6.8.9.14.15.18; 7,11.21). Các tương quan với Người phải mang dấu ấn là sự tín tưởng, tín nhiệm, nhất là sự chân thật. Người là Đấng không thể bị lừa dối bởi những chuyện bề ngoài, đóng kịch. Trước nhan Người, điều đáng kể là các hành vi chứ không phải là các lời nói. Sự trong sáng, sự chân thật không những là đặc tính của các tương quan với Thiên Chúa mà còn với cả anh chị em đồng loại nữa. Lời khuyên Đức Giêsu ban cho các môn đệ là “đừng phô trương công đức (= dịch sát, “làm sự công chính, dikaiosynên”) trước mặt (pros) người ta, để hòng được họ thấy (theathênai)” (x. cha Nguyễn Thế Thuấn). Người không nhắm đến các việc làm mà là ý hướng. Làm các hành vi phụng tự hoặc các điều Luật đòi hỏi để được người ta thấy có nghĩa là hành động để nhận lời khen và tiếng vỗ tay của họ. Làm như thế là nhắm tới danh thơm tiếng tốt của mình. Đây là một thứ tôn giáo giả danh, nhắm trình diễn (theaomai), thì trống rỗng, vì phá hỏng giá trị của việc làm.

Do Thái giáo quy định nhiều việc thực hành đạo đức. Mt nêu ra ba hành vi tiêu biểu của “sự công chính” của người Israel đạo đức: bố thí (6,2-4), cầu nguyện (6,5-6) và ăn chay (6,16-18).

 

* Ba việc đạo đức (2-6.16-18)

Cần ghi nhớ hai cách thực thi: 1) “để được người ta thấy” và “được họ khen ngợi” (cc. 2.5.16); đó là cách của bọn “đạo đức giả”; 2) trong quan hệ thân tình với “Chúa Cha, Đấng thấy trong nơi bí ẩn” (cc. 4.6.18); đây là cách Đức Giêsu chờ đợi các môn đệ theo.  

Một hành vi thực hiện trước nhan Chúa Cha “nơi kín đáo: (cc. 4.16.18) không có nghĩa là một “hành vi bí mật”, mà là bất cứ hành vi nào, kể cả hành vi công khai, được thực hiện trước nhan Chúa Cha, Đấng “thấy trong nơi kín đáo”, nghĩa là Đấng thấu suốt ý hướng sâu xa nhất của các con tim.

a) Việc bố thí (cc. 2-4). Bố thí là việc làm “công chính” theo phép cải danh[1], tức là thay vì nói là “bố thí”, người ta nói là “sự công chính”. Lý do: sự bất bình đẳng trong xã hội trên đất nước Paléttina, đặc biệt sau Lưu đày, đã khiến người ta hiểu sự công chính-từ bi thương xót ưu tiên theo nghĩa là “bố thí” (x. Xh 22,20-26; 23; Lv 25; Đnl 15; Hc 29,1tt). Việc bố thí càng trở nên quan trọng hơn với các ngôn sứ và các bậc hiền giả. Vụ việc của người nghèo được Thiên Chúa coi là vụ việc của chính Người. Việc bố thí nằm trên đường hướng của lễ hy sinh: nó xóa tội lỗi và cho con người xứng đáng nhận ơn cứu độ (x. Đn 4,24 (LXX); Hc 35,2). “Đừng … như bọn đạo đức giả thường làm”. Các hành vi mà người đạo đức giả làm không quy hướng về Thiên Chúa hoặc về sự thiện hảo của người thân cận, nhưng cho các quyền lợi riêng tư của người ấy, cho tiếng tăm của riêng người ấy trước mặt người đời. Nếu đó là động lực thúc đẩy người ấy hành động, người ấy không thể nhận được bất cứ phần thưởng nào từ phía Thiên Chúa. Người môn đệ Chúa Kitô phải bố thí theo cách ngược lại với bọn đạo đức giả, nghĩa là “đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (c. 3). Hình ảnh này không muốn nói là phải nhắm mắt lại khi biếu tặng một món gì, nhưng là phải coi mình là xa lạ với chính các hành vi tốt lành của mình.

b) Cầu nguyện (cc. 5-6). Cầu nguyện trong Đền Thờ, tại hội đường và các nơi công cộng, riêng tư hoặc trong nhà, chiếm một phần quan trọng trong đời sống người Do Thái (x. Is58,3-7; Er 2,4; Tb 12,8; Br 1,5). Không có giờ nào trong ngày mà lại không có kèm theo một lời ngợi khen (chúc tụng) dâng lên Thiên Chúa. Tân Ước cũng nói đến đòi hỏi này (x.Lc 5,33; 1 Tx 5,17). Trong bài giảng này, Đức Giêsu cảnh giác các môn đệ coi chừng những méo mó mà sự đạo đức được tổ chức, nhất là đạo đức công cộng, có thể gặp. Bổn phận phải ngỏ lời với Thiên Chúa vào những lúc nhất định trong ngày đã đưa người Do Thái đến những thái độ đạo đức (đứng, giang tay hoặc giơ tay, cúi mình, quỳ gối, phủ phục, v.v.) tại bất cứ nơi nào họ hiện diện, kể cả nơi công cộng. Sự khoe khoang cũng có thể len lỏi vào trong lối hành xử chủ yếu thánh thiêng này. Bọn “đạo đức giả” không phải chỉ là những người giả bộ một kiểu đạo đức thực ra không có (x. Mt 22,18), mà còn là tất cả những ai, ý thức hay không ý thức, chỉ quan tâm đến hành vi bên ngoài, đến dáng vẻ bề ngoài, đến nghi thức. Họ nghĩ rằng khi mình làm tất cả những điều này đúng luật, thì Thiên Chúa phải coi là đã được phục vụ, cho dù ý hướng của người ta có đi tới tận đâu, hoặc chỉ nhắm cho được người ta nể trọng và ca ngợi. Đức Giêsu không hề có ý sửa đổi nghi thức Do Thái về cầu nguyện, nhưng chỉ gợi ra cách cầu nguyện đúng đắn khi bảo là tránh sự khoe khoang, vụ hình thức, giả hình. Lời nhắc nhở của Người cũng ở trong chiều hướng của truyền thống ngôn sứ và khôn ngoan (x. Am 5,21-25; Hs 8,11-13; Mk 6,6-8; Gr 7; Ed18; Is 58,1-12; Ge 2,12-13; v.v.). Lời Đức Giêsu bảo “vào phòng, đóng cửa lại” (c. 6) không phải là một lời dạy phải theo sát mặt chữ. Ai cầu nguyện trong tình cảnh ấy không chắc chắn là không bị hư danh thúc đẩy. Ngay cả trong thinh lặng của phòng mình, người ta vẫn có thể cầu nguyện như làm một hành vi ích kỷ. Đức Giêsu muốn nói là phải làm sao để không xóay vào mình nhưng là một gặp gỡ với Thiên Chúa. Khi đó, người ta có thể cầu nguyện nơi công cộng, với cộng đoàn, mà vẫn đạt mục tiêu là đối thoại thực sự với Thiên Chúa, cũng như có thể cầu nguyện riêng tư, nơi phòng kín, mà vẫn không đạt mục tiêu. Dù sao “việc cầu nguyện ẩn giấu” vẫn giúp dễ đi tới tương quan thân tình với Thiên Chúa là Cha. Vì thế, Đức Giêsu có thể kết luận: “Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”.

c) Ăn chay (cc. 16-18). Ăn chay là một cách quan trọng để thực hành “sự công chính” cũ và mới. Kiêng cữ các thực phẩm nhiều ngày, nhiều tuần, là điều quen thuộc trong thế giới Do Thái. Nếu tính theo ngày, có thể ăn chay từ 1 đến 40 ngày; nếu tính theo tuần, có thể ăn chay từ một đến ba tuần. Kể từ thời Lưu đày, người ta tăng thêm các thời gian ăn chay hàng năm (Ngày Lễ Xá tội, Kỷ niệm tàn phá Đền Thờ; các tai họa công cộng; v.v.. Xem Dcr7,3.5; 8,19; Er 4,16; Nkm 9,1). Ngày chay nổi tiếng là Ngày Kippur (Lv 16,29; 23,27-32), vì việc ăn chay có kèm theo các nghi lễ nhằm nêu bật ra bên ngoài ý nghĩa thống hối của nó: than vãn, gào khóc, mặc các bộ áo thô hèn, rắc bụi và tro lên người, bỏ các quan hệ vợ chồng, bỏ săn sóc thân thể, bỏ tắm rửa, không xức dầu thơm, không đi giày, không chào hỏi, nằm ngủ trên đất, tham dự các buổi hội họp phụng vụ. Những người đạo đức ăn chay mỗi tuần hai lần. Việc ăn chay hạ thấp con người và tiêu diệt các khát vọng vô trật tự của họ, như thế, nó thanh luyện, xá tội, ban ân huệ (x. 1 Sm 7,6; 2 Sm 12,6; 1 V 21,27; Gr 36,9;Ge 1,13-14; 2,15; Gn 3,7; Er 8,21-23; Đn 9,3; Tb 12,8; Et 4,16; Tv 35,13; 69,11; v.v.).

Đức Giêsu không kết án việc ăn chay nhưng cách thức đôi khi người ta theo để ăn chay. Thay vì diễn tả sự hạ mình của cá nhân, nó lại trở thành một cơ hội để tỏ mình ra với tính kiêu ngạo, tức hoàn toàn ngược lại với những gì việc ăn chay phải diễn tả ra. Thay vì là một hành vi thống hối và quay về với Thiên Chúa, nó lại là một khẳng định về tính khoe khoang. Sự hoán cải chỉ có ở bề ngoài, không có thật; trái tim, tâm trí vẫn như cũ, vẫn còn xa Thiên Chúa. Việc ăn chay của người môn đệ, cũng như việc bố thí và cầu nguyện, phải làm kín đáo. Đức Giêsu không hề có ý đề nghị một lối sống thẩm mỹ thống hối, nhưng mời thính giả xét lại các ý hướng từng thúc đẩy họ làm các việc đạo đức. Rửa mặt, xức dầu thơm là những hành vi mở đầu cho lễ mừng hơn là cho ngày tang ma, nên chúng che giấu được các từ bỏ mà hối nhân bắt mình phải làm. Trong thực tế, người môn đệ ăn chay có thể giữ một thái độ mừng lễ bởi vì biết giá trị của việc thống hối của mình trước nhan Thiên Chúa. Do đó, người ấy xử sự như đi đến một bữa tiệc mừng.

 

Toàn bản văn này cũng mang một sứ điệp như đoạn 5,13-16: mọi lối xử sự của người Kitô hữu phải tỏ lộ Thiên Chúa ra và đưa đến chỗ tôn vinh Người, chứ không phải là một cơ hội để đưa mình ra mà khoe khoang hay tự mãn.  

 

+ Kết luận

Người nào làm một hành vi tôn giáo mà nhằm một phần thưởng nhân loại trần thế, thì mất phần thưởng thần linh và vĩnh cửu. Người nào làm vì Thiên Chúa, nghĩa là cách nhưng-không, không tìm phần thưởng, thì được ban thưởng.

Toàn bản văn và văn cảnh (x. Mt 5,43-48; 6,9-13) mời ta nối kết đề tài phần thưởng với đề tài Chúa Cha và quan hệ Cha-con. Để đáp lại những hành vi nhân loại diễn tả hữu-thể-trước-Chúa-Cha, điều sẽ được ban, trước tiên đó là quan hệ đáp lại từ phía Chúa Cha. Các hành vi tôn giáo trung thực này sẽ sản sinh hoa trái bên trong: Thiên Chúa “đáp lại” quan hệ ta thiết lập với Người. Vậy có thể nói phần thưởng nằm ngay bên trong: nó chính là sự tăng trưởng quan hệ Cha-con.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Cách thức “sống sự công chính” theo Tin Mừng, là sự kín đáo, chiều sâu nội tâm của các ý hướng, quên mình và ưu tiên cho danh dự và quyền lợi của Thiên Chúa. Một đời sống tôn giáo giả danh, quy ngã, thì đã chiếm mất chỗ của sự đạo đức thật, chủ yếu là hướng thần. Đây là một sự đảo lộn vừa phi lý vừa nguy hiểm.

2. Khi bố thí, người Kitô hữu phải coi là mình ở xa chính mình đến nỗi mình không còn có thể phân biệt những gì mình đang làm. Đức Giêsu bảo chúng ta là phải tránh mọi ý ngầm khi làm hành vi lành thánh để bảo toàn được tính cao siêu và ngay thẳng của việc giúp đỡ người anh em. Sự khác biệt cốt yếu giữa việc bố thí của bọn đạo đức giả và của người Kitô hữu là một bên làm “trước mặt loài người”, còn bên kia làm “trước mặt Thiên Chúa”. Bọn đạo đức giả thì lấy loài người làm thẩm phán đánh giá việc mình làm, còn Kitô hữu thì chờ đợi sự đánh giá của chính Thiên Chúa.

3. Xu hướng dụng-cụ-hóa việc cầu nguyện là sự méo mó khó giải thích nhất của đời sống đạo đức, bởi vì xu hướng này vận dụng vào mà phục vụ chính ta tất cả những gì chủ yếu thuộc về Thiên Chúa. Để cầu nguyện, không phải chỉ nhìn nhận Thiên Chúa cách lý thuyết là đủ, mà phải gặp gỡ Người, cảm nhận về Người, trao đổi trò chuyện với Người như với người bạn, một người cha, một đồng nghiệp. Nơi cô tịch không những giúp tránh khoe khoang, mà còn giúp thông giao với Thiên Chúa.

4. Việc ăn chay, cũng như mọi đau khổ khác, là một nguồn vui cho người ăn chay, bởi vì nó cho họ được đến gần Thiên Chúa hơn. Lời Đức Giêsu mời gọi hãy có một thái độ vui tươi thay vì u ám thảm sầu nhấn mạnh đến ý nghĩa chung cuộc của việc thống hối Kitô giáo: được chịu đau khổ là một ân huệ, thì được ăn chay cũng thế.

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …