LỄ HIỂN LINH
(Mt 2,1-12)
I.TÀI LIỆU GỢI Ý
1.Bêlem cách Giêrusalem 6 dặm về phía nam
Xưa Bêlem gọi là Ephrath hay Ephratah. ‘Belem’ có nghĩa là ‘nhà bánh’ cao 2.500 bộ, phì nhiêu. Bêlem là nơi Giacóp chôn Rakhen (Kn 48,7; 35,20), nơi bà Rút kết hôn với Boaz (Rút 1,22); từ đây, Rút có thể xem thấy quê bà là Moab, bên kia thung lũng Giođan. Nhất là Bêlem là quê Đavít (1Sam 16,1; 17,12; 20,6); tại giếng Bêlem, Đavít khát trong thời chạy trốn (2Sam 23,14-15). Sau này Bêlem được tăng cường bởi Rehoboam (2Chro 11,6); hơn nữa người Do Thái còn cho Bêlem là nơi của Đavít, Đấng giải thoát dân, sẽ đến (Mic 5,2). Giúttinô sống vào những năm 150, nói ‘Chúa Giêsu sinh trong một hang gần Bêlem’.[1] Vì nhà ở Bêlem thường xây trên sườn đồi, có hang bên dưới, nên rất có thể Chúa đã sinh ra trong một hang như thế. Trên đồi đó, có thánh đường ‘Giáng Sinh’. Hoàng đế Hadrian cố ý xúc phạm đền thờ này, xây trên đó đền thờ thần Adonis. Đầu thế kỷ 4, khi đế quốc Rôma trở lại Kitô giáo, hoàng đế đầu tiên là Constantine, lại xây một thánh đường lớn trên đền thờ đó. Thánh đường đó nhiều lần được trùng tu, sửa đổi cho đến nay. H.V.Morton kể việc ông thăm nhà thờ ‘Giáng Sinh’ tại Bêlem như sau: “ông tới một bức tường lớn có một cửa nhỏ phải khom lưng mới qua được; bên kia cửa là một thánh đường. Vào trong, dưới bàn thờ có một hang, xuống hang đó, người ta thấy một lũng nhỏ dài 12 thước 79 (14 yards), rộng 3 thước 65 (4 yards) với những đèn bạc cháy sáng. Dưới nền có hình một ngôi sao, chung quanh có hàng chữ Latinh ‘đây là nơi Chúa Giêsu Kitô đã sinh ra do Nữ Đồng Trinh Maria’’. Khi Chúa hiển vinh ngự đến, Người được sinh ra trong chuồng bò lừa. Hang trong thánh đường Bêlem có thể là chuồng bò lừa đó. Đúng sai không cần biết, nhưng một biểu tượng đẹp, gói ghém trong cửa hẹp kia. Đó là muốn vào Thánh Đường Giáng Sinh, người ta phải khom lưng, nghĩa là phải khiêm cung, quì gối. Tới gặp hài nhi Giêsu, ta cũng phải khom lưng quì gối, nghĩa là khiêm cung tôn kính…[2]
2.Herodotus (1: 101,132) cho biết về ba vị chiêm tinh gia
Các ông đến từ bộ lạc Median, phần đất thuộc đế quốc Ba Tư. Đầu tiên, các ông cố gắng lật đổ Ba Tư, nhưng thất bại. Từ đó, các ông bỏ tham vọng và trở nên bộ tộc hàng tư tế. Tại Ba tư, các ông trở thành những người như giới Lêvi trong xã hội Do Thái, thành những thầy dạy dỗ các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không thể dâng của lễ nếu không có một trong các ông hiện diện; các ông là những người thánh, khôn ngoan, giỏi triết, thuốc, khoa học tự nhiên. Họ thành những nhà tiên tri, giải đáp các giấc mơ. Về sau, Magus có nghĩa kém hơn, là bói toán, ảo thuật, lang băm, như Elymas (Cv 13,6.8), Simon Magus (Cv 8,9.11). Thời đó người ta tin vào thiên văn. Nhìn trăng sao, người ta có thể tiên đoán những sự việc trong tương lai. Họ tin số phận con người cũng tùy thuộc vào trăng sao. Bình thường trăng sao, tinh tú vận chuyển điều hòa, nên mỗi khi có hiện tượng khác lạ xẩy ra, người ta cho đó là dấu Thiên Chúa can thiệp, báo trước việc lạ lùng nào đó. Không biết ba nhà chiêm tinh thấy ngôi sao sáng nào. Chỉ biết vào năm 11 trước Chúa, sao chổi Halley xuất hiện. Vào năm 7 trước Chúa, Saturn và Jupiter giao nhau. Từ năm 5 tới năm 2 trước Chúa, xẩy ra một hiện tượng thiên văn bất thường. Vào những năm trên, ngày đầu tiên tháng Egyptian là Mesori, Sirius, ngôi sao chổi, sáng khác thường, mọc lên như hình xương sống lúc mặt trời mọc. Ngày nay, tên Mesori có nghĩa là một hoàng tử sẽ sinh ra, và với những thiên văn gia thời đó thì chắc chắn đó sẽ là một vua vĩ đại. Ta không thể nói sao nào mà ba chiêm tinh gia đã thấy, nhưng nghề của các ông là quan sát bầu trời, và sao sáng khác lạ đối với các ông là dấu vị vua sẽ sinh ra.[3]
3.Ba nhà chiêm tinh đi tìm kiếm vị tân vương
Ba ông đi tìm là một chuyện lạ; và lạ nữa là cũng thời ấy, khắp nơi người ta trông đợi một vua sẽ sinh ra. Cả những sử gia Rôma cũng trông đợi, vì sau đó không lâu, Suetonius đã viết ‘một niềm tin khắp miền đông là sẽ có vua sinh từ Giuđê để cai trị thế giới’ (Suetonius, Life of Vespasian, 4,5). Tacitus cũng nói ‘người ta tin chắc chắn là vào chính thời gian này, Phương Đông sẽ nên quyền thế và những nhà lãnh đạo từ Giuđê sẽ cai trị hoàn vũ’ (Tacitus: Histories 5,13). Người Do Thái cũng tin là một người trong họ sẽ cai trị trái đất (Giosép, Wars of the Jews 6: 5,4). Ít lâu sau, ta lại thấy Tiridates, vua Armenia, thăm Nêro tại Lamã có các chiêm tinh gia (magi) đi theo (Suetonius, Life of Nero, 13,1). Tại Athens, các chiêm tinh gia dâng lễ hy sinh ghi nhớ Plato (Seneca. Epistles 58, 31). Hầu như cùng thời Chúa sinh ra, Augustus, hoàng đế Rôma đã được chào mừng như vị cứu tinh thế giới, và Virgil, thi sĩ Rôma, viết Bài Hát Đối (Eclogue) thứ bốn, được coi như Bài Hát Đối về Đấng Thiên Sai, về thời vàng son sẽ đến. Như thế, việc ba chiêm tinh gia tìm kiếm vị tân vương không có gì lạ. Lúc Chúa Kitô đến là lúc khắp thế giới đang mong đợi. Con người, vì biết tự sức không thể đạt tới thời vàng son, đang khao khát chờ mong một vị cứu tinh. Và Người đến, toàn thế giới đều vây quanh Người bên máng cỏ. Đó là dấu đầu tiên, là biểu tượng cuộc chiến thắng của Chúa Kitô.[4]
4.Ba chiêm tinh gia đến thờ lạy
Lưu truyền nói rằng sau khi dẫn đường cho ba chiêm tinh gia đến Bêlem, ngôi sao đã xa xuống giếng Bêlem, và ngày nay thỉnh thoảng vẫn được những ai có lòng trong sạch nhìn thấy. Lúc đầu, lưu truyền đông phương cho là có 12 vua nhưng hiện giờ chỉ có ba. Ba chiêm tinh gia là dựa vào ba của lễ. Lưu truyền sau này các ông là ba vua. Lưu truyền còn nói rõ các ông là Caspar, Melchior và Balthasar. Melchior già, tóc bạc, râu dài, dâng vàng; Caspar, trẻ, không râu, mặt đỏ, dâng hương; Balthasar đen sậm, râu chúm chím, dâng mộc dược. Ngay từ xưa, người ta đã thấy của lễ ba vua dâng cho Chúa là xứng hợp:
4.1.Vàng, của lễ cho vua
Seneca nói xưa tại Parthia không ai đến với vua mà không dâng của lễ. Và vàng, quí nhất trong các loại kim khí, là của lễ xứng hợp để dâng cho Chúa là vua mọi người. Đô đốc Nelson luôn đối xử với bại quân một cách rất nhã nhặn. Sau trận thủy chiến, đoàn quân của Nelson chiến thắng. Người ta dẫn đô đốc chiến bại đến trước Nelson tại tổng hành dinh trên chiến hạm. Nghe biết Nelson là người nhân từ, đô đốc chiến bại tiến đến, giơ tay bắt tay Nelson. Nelson vẫn thõng tay, ung dung nói “hãy đưa kiếm trước rồi hãy bắt tay”. Trước khi kết thân với Chúa Kitô, người ta phải suy phục Người đã.
4.2.Nhũ hương, của lễ cho tư tế
Khi thờ phượng, dâng của lễ, khói hương thường nghi ngút trong Đền Thờ. Nhiệm vụ của tư tế là mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa. Tiếng Latinh pontifex có nghĩa là người bắc cầu, xây cầu. Tư tế là người bắc cầu giữa Thiên Chúa và con người. Đó là vai trò của Chúa Giêsu, đấng mở đường tới Thiên Chúa…
4.3.Mộc dược, của lễ cho người chết
Mộc dược được dùng để tẩm liệm người chết. Chúa Giêsu xuống trần để chết. Holman Hunt có bức ảnh Chúa Giêsu thời danh. Ảnh vẽ Chúa Giêsu đứng trước tiệm thợ mộc tại Nadarét. Lúc đó Chúa Giêsu còn trẻ. Người đứng trước cửa, giang tay với hai bên cửa. Đàng sau là bức tường, ánh chiều tà chiếu hình Người như hình thập giá. Gần đó Maria đứng nhìn với dòng lệ tuôn rơi… Chúa đến vì con người, để chết cho con người. Ngay từ máng cỏ, Chúa Giêsu đã tỏ ra Người là Vua, là Thượng Tế và là Đấng Cứu Thế.[5]
- CHIA SẺ TIN MỪNG
Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu (Mt 2,1-12)
Một cuộc thăm dò trên tuần báo Newsweek ngày 5 tháng 12 năm 2004, với câu hỏi: “Thế giới hôm nay sẽ trở nên tốt hay xấu hơn nếu không có Chúa Giêsu” và được kết quả như sau:
– 61% cho rằng: thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn nếu như không có Chúa
Giêsu.
– 47% nói rằng: sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn, nếu như Chúa Giêsu không
tồn tại trên thế giới này.
– 63% nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn
– 58% thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu như không có Chúa Giêsu.
– 59% thì cho biết hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi và
– 38% tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có
Chúa Giêsu.
– 26% thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Chúa Giêsu.[6]
Tại sao lại có những kết quả trái ngược nhau như thế?
Trở lại lịch sử, chúng ta thấy: ngay khi Chúa Giêsu mới giáng sinh thì đã có ba nhóm người tiêu biểu cho ba thái độ chung cho cả nhân loại đối với Chúa Giêsu trong suốt dòng lịch sử, ba thái độ đó là:
1.Con người và phản ứng của Hêrôđê
Hêrôđê có một cá tính kinh khủng, ông đa nghi một cách điên khùng, ông là người luôn luôn ngờ vực, càng về già ông càng đa nghi đến độ có kẻ đã gọi ông là “ông già sát nhân”. Ông nghi ai là đối thủ tranh chấp quyền hành thì người ấy liền bị loại trừ ngay. Ông đã giết vợ là Marianne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander và Aristobulus cũng bị ông sát hại luôn. Hoàng đế Rôma là Augustus đã cay đắng nói rằng: “làm con heo của Hêrôđê còn an toàn hơn làm con trai ông ta” (câu nói bằng tiếng Hy Lạp dí dỏm hơn, vì tiếng Hy Lạp hus là con heo và huios là con trai).
Bản chất man rợ của Hêrôđê còn được thấy rõ hơn trong những việc chuẩn bị của ông trước khi qua đời. Khi được bảy mươi tuổi biết mình sắp chết, ông rút về thành Giêricô, thành xinh đẹp nhất của ông, rồi truyền lệnh bắt một số người nổi danh nhất trong thành Giêrusalem, vu khống rồi hạ ngục. Ông truyền lệnh phải giết hết những người ấy khi ông lâm chung, vì ông biết rằng khi ông chết chẳng ai thèm than khóc, nên nhất định phải làm sao cho có nước mắt đổ ra lúc ông chết. Chính vì thế ganh ghét và thù địch, Hêrôđê sợ Hài Nhi sẽ can thiệp vào quyền thế và ảnh hưởng của mình. Bởi vậy, thôi thúc đầu tiên trong ông là giết Ngài.
Ngày nay cũng vậy vẫn còn nhiều người quyết tâm tiêu diệt Chúa Giêsu, vì họ chỉ thấy Ngài là người xen vào đời sống họ, không cho họ làm theo điều mình thích nên họ muốn giết Ngài. Người nào chỉ ước ao làm theo ý thích của riêng mình thì không bao giờ cần Chúa Giêsu.
2.Phản ứng của các Tư Tế và Kinh Sư
Hoàn toàn dửng dưng, đối với họ chẳng có chuyện gì thay đổi. Họ chỉ quan tâm đến lễ nghi tế tự trong Đền Thờ và những thảo luận về Lề Luật, đến nỗi họ hoàn toàn không để ý gì đến Chúa Giêsu. Ngài chẳng có nghĩa gì đối với họ. Ngày nay vẫn còn những người chỉ quan tâm đến việc riêng mình đến nỗi Chúa Giêsu trở thành vô nghĩa.
3.Con người và phản ứng của các nhà đạo sĩ
Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Theo Herodotus (1,101,132), Magi nguyên là một chi phái Mêđi. Người Mêđi là một phần dân thuộc đế quốc Ba Tư. Họ cố gắng lật đổ người Ba Tư đem chính quyền về cho người Mêđi.
Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ mọi tham vọng quyền hành và trở nên chi phái tư tế. Các Magi đối với dân Ba Tư cũng giống như các thầy Lêvi đối với dân Israel. Họ trở thành thầy dạy và giáo dục cho các vua Ba Tư. Tại Ba Tư không được dâng lễ vật nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Những người Magi này rất giỏi về triết học, y khoa và khoa học tự nhiên. Với thái độ thành tâm thờ phượng, họ ao ước được đặt nơi chân Chúa Giêsu những tặng vật cao quý nhất. Khi một người đã nhận ra tình yêu bao la của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu thì chắc phải đắm chìm trong sự kinh ngạc, kính mến và ca ngợi Ngài.[7]
Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù không biết đến lời tiên tri, không biết đến lời hứa, không thuộc Thánh Kinh, nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian khổ để đạt được điều mơ ước.
Các đạo sĩ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ đã nhận ra. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao, họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho được.
Các đạo sĩ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn, trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.[8]
Nhìn vào các đạo sĩ, nếu chúng ta quyết tâm tìm Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Ngài trong cuộc đời chúng ta.Amen.
[1] Justin Martyr: Dialogue with Trypho 78, 304
[2] Lm Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.94
[3] Lm Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.94-95
[4] Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.95
[5] Giuse Phạm Văn Tuynh,OP. Theo Chúa Kitô, Quyển hai Tập một, trg.97-98
[6] Báo Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, tr 53
[7] William Barclay
[8] TGM.Giuse NQKiệt