TẢNG ĐÁ và THANH GƯƠM
Tảng đá Phêrô làm nền móng của Giáo Hội, bởi vì Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội trên tảng đá vững chắc đó, ngay cả ma quỷ cũng phải “bó tay” (Mt 16:18). Thanh gươm Phaolô đã triệt hạ bao tín nhân, nhưng thanh gươm đó đã được Thiên Chúa sử dụng để bảo vệ Giáo Hội. Thế cờ hoàn toàn đảo ngược!
Thánh Ý Thiên Chúa thật là mầu nhiệm, chúng ta không thể lý luận để hiểu thấu theo lý lẽ của phàm nhân. Một ngư phủ Simon cương trực, thẳng thắn thật thà, nhưng cũng dứt khoát chối bỏ Thầy mình ngay trong lúc cấp bách nhất, thậm chí có lần còn bị Chúa Giêsu nguyền rủa là Satan (Mt 16:23), nhưng một Phêrô hèn nhát đó đã biến thành một Phêrô can đảm và chịu đóng đinh ngược vì Thầy Giêsu. Một Saolê hung tàn và bạo ngược, quyết tâm giết sạch những ai dám tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, thậm chí còn chủ trì trong cuộc sát hại Phó tế Stêphanô (Cv 7:58), nhưng một Saolê độc ác đó đã trở thành một Phaolô nhiệt thành rao giảng về Đức Kitô chịu chết và phục sinh.
Thánh Phêrô và Thánh Phaolô là hai vị được Thiên Chúa đặc cách với vai trò và trọng trách khác nhau, nhưng cùng một mục đích: bảo vệ Giáo Hội. Đó là hai cột trụ vững chắc chống đỡ Giáo Hội. Thánh Phêrô được Chúa Giêsu trao “chìa khóa Nước Trời” với cương vị giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội, còn Thánh Phaolô được chọn làm tông đồ của dân ngoại.
Từ cổ chí kim, bất cứ ai theo Chúa Giêsu cũng phải chịu nhiều đau khổ, cách này hoặc cách khác, chứ chẳng ai được thảnh thơi an nhàn. Sách Công Vụ cho biết thực tế đó: “Thời kỳ ấy, vua Hêrôđê ra tay ngược đãi một số người trong Hội Thánh. Nhà vua đã cho chém đầu ông Giacôbê là anh ông Gioan. Thấy việc đó làm vừa lòng người Do-thái, nhà vua lại cho bắt cả ông Phêrô nữa. Bấy giờ đang là tuần lễ Bánh Không Men. Bắt được rồi, nhà vua truyền tống ngục và giao cho bốn tốp lính canh gác, mỗi tốp gồm bốn người, định sau lễ Vượt Qua sẽ điệu ông ra cho dân chúng. Đang khi ông Phêrô bị giam giữ như thế, Hội Thánh không ngừng dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện khẩn thiết cho ông” (Cv 12:1-5). Ngày nay, tình trạng bắt bớ vì chính nghĩa vẫn xảy ra trên khắp thế giới – Việt Nam cũng không là quốc gia ngoại trừ, bởi vì chủ nghĩa vô thần đã lây lan khắp nơi.
Thiên Chúa toàn năng, toàn trí và toàn tri, Ngài làm ngơ khi kẻ ác hoành hành bởi vì chưa đến lúc thực sự cần thiết để Ngài ra tay. Sách Công Vụ tường thuật một phép lạ nhãn tiền cứu thoát ông Phêrô: “Trong đêm trước ngày bị vua Hêrôđê đem ra xử, ông Phêrô ngủ giữa hai người lính và bị khoá vào hai cái xiềng. Trước cửa ngục lại có lính canh. Bỗng thiên sứ của Chúa đứng bên cạnh ông, ánh sáng chói rực cả phòng giam. Thiên sứ đập vào cạnh sườn ông Phêrô, đánh thức ông và bảo ông đi. Xiềng xích liền tuột khỏi tay ông. Thiên sứ bảo ông thắt lưng và xỏ dép. Ông làm như vậy. Rồi thiên sứ lại bảo ông khoác áo choàng vào và đi theo thiên sứ. Ông liền theo ra mà không biết việc thiên sứ làm đó có thật hay không, cứ tưởng là mình thấy một thị kiến” (Cv 12:6-9). Chuyện xảy ra ngoạn mục tưởng như chỉ có trong phim ảnh, viễn tưởng, thế nhưng lại là chuyện có thật trăm phần trăm. Chính ông Phêrô cũng không hề biết mình tỉnh hay mơ kia mà!
Diễn biến lạ lùng mà có vẻ như rất ư bình thường. Qua vọng canh thứ nhất, rồi vọng canh thứ hai, thiên sứ và ông Phêrô tới trước cửa sắt thông ra phố. Cửa tự động mở ra trước mặt hai người. Ra đến ngoài, đi hết một đường phố, bỗng nhiên thiên sứ bỏ ông mà đi. Lúc ấy ông Phêrô mới hoàn hồn: “Bây giờ tôi biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của Người đến, và Người đã cứu tôi thoát khỏi tay vua Hêrôđê và khỏi mọi điều dân Do-thái mong muốn tôi phải chịu” (Cv 12:11). Thực tế thật trăm phần trăm chứ không hề là chiêm bao hoặc mộng ảo. Kỳ diệu quá! Quả thật, “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1:37).
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Ăn cây nào rào cây nấy”. Đó là quy luật tất yếu trong cuộc sống đời thường mà thôi. Về phương diện tâm linh cũng không khác. Chúng ta lãnh nhận Ơn Chúa quá nhiều mà có lẽ ít khi biết tạ ơn. Rất cần học hỏi cách xử sự của Thánh Vịnh gia: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” (Tv 34:2-5). Khi cảm nghiệm ơn Chúa, người ta không thể lặng im, mà chỉ muốn chia sẻ với người khác.
Từ đời đời cho tới đời đời, Thiên Chúa vẫn mãi là Đấng đại lượng, giàu lòng thương xót, không làm ngơ những người tin yêu Ngài: “Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn. Sứ thần của Chúa đóng trại chung quanh để giải thoát những ai kính sợ Người” (Tv 34:6-8). Với kinh nghiệm về đời sống tâm linh, Thánh Vịnh gia chân thành chia sẻ và mời gọi: “Hãy nghiệm xem Chúa tốt lành biết mấy: hạnh phúc thay kẻ ẩn náu bên Người!” (Tv 34:9).
Cái gì cũng có cái giá nhất định của nó. Điều này “rõ nét” đối với ông Saolê (Phaolô). Thật vậy, nhờ kinh nghiệm cú ngã ngựa, kinh nghiệm độc nhất vô nhị, và đó cũng là phép lạ nhãn tiền, ông bất ngờ trở nên trưởng thành tâm linh nên chân thành chia sẻ tâm sự: “Tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày Ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện” (2 Tm 4:6-8). Ước gì mỗi chúng ta cũng có thể xác định được như Thánh Phaolô, nhất là khi biết mình “gần đất, xa trời”, sắp đến lúc phải giũ bụi trần ai!
Thánh Phaolô có thể nói vậy bởi vì luôn biết tín thác vào Thiên Chúa: “Nhưng có Chúa đứng bên cạnh, Người đã ban sức mạnh cho tôi, để nhờ tôi mà việc rao giảng được hoàn thành, và tất cả các dân ngoại được nghe biết Tin Mừng. Và tôi đã thoát khỏi nanh vuốt sư tử. Chúa sẽ còn cho tôi thoát khỏi mọi hành vi hiểm độc, sẽ cứu và đưa tôi vào vương quốc của Người ở trên trời. Chúc tụng Người vinh hiển đến muôn thuở muôn đời. Amen” (2 Tm 4:17-18). Các thư của Thánh Phaolô là kho tàng về đời sống tâm linh, chúng ta có thể thấy mọi trường hợp mà hằng ngày chúng ta vẫn gặp trong cuộc sống đời thường. Thánh Phaolô giỏi về kiến thức đời thường và giỏi cả kiến thức tâm linh nữa, đồng thời ông cũng như một tâm lý gia vậy.
Chắc hẳn ai cũng khả dĩ biết rằng cuộc đời là một cuộc chiến không ngừng – với chính mình, với thế gian và với ma quỷ. Chính Thánh Phaolô cũng đã than phiền về tính vô định của mình: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7:19). Còn sống trong thân xác phàm nhân là thế. Chán thật! Nhưng con người là thế thôi, do đó mà phải nỗ lực từ bỏ chính mình để có thể vác thập giá khi bước theo Đức Giêsu Kitô. Vấn đề là có muốn hay không, chứ vác thập giá “oải” lắm, hiếm khi ngon trớn, thường thì kéo lê, lúc thì ngã quỵ,… Mệt lắm! Chúa biết và cảm thông với chúng ta lắm, bởi vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi sự (1 Sbn 28:9b; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6; 1 Ga 3:20). Thiên Chúa toàn năng luôn quan phòng và tiền định mọi thứ, ngay cả từng sợi tóc trên đầu mỗi người chúng ta cũng đã được Ngài đếm cả rồi (Mt 10:30).
Thuốc đắng đã tật. Hai lão tướng Phêrô và Phaolô đã được biến đổi nhờ “biệt dược” đau khổ. Thật vậy, chính đau khổ mới làm cho người ta thành nhân, cả đời thường và tâm linh. Đau khổ có giá trị kỳ diệu, thế nên chính Đức Kitô đã chịu đau khổ tới tột cùng để làm gương cho chúng ta. Ngài đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, ngài chết để chúng ta được sống. Để có thể chịu đau khổ, người ta phải có niềm tin lớn mạnh. CHính đức tin là “siêu vũ khí” để chúng ta ngoan cường chiến đấu: “Điều làm cho chúng ta thắng được thế gian là lòng tin của chúng ta” (1 Ga 5:4).
Có đức tin là quan trọng, dám tuyên xưng niềm tin đó còn quan trọng hơn. Trình thuật Mt 16:13-19 nói về việc tuyên tín của Thánh Phêrô. Chúa Giêsu muốn xác định đức tin của ông để giao đại sự. Không chỉ vậy, Ngài còn đòi hỏi tình yêu chân thành của ông nên đã ba lần hỏi ông có yêu mến Ngài hay không (x. Ga 21:15-19). TIN và YÊU là hai “luật buộc” để làm “cột trụ” trong đời sống tâm linh của mỗi Kitô hữu.
Thánh Mátthêu tường trình rằng, khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Ngài hỏi các môn đệ xem người ta nói Ngài là ai. Ngài hỏi cho vui thôi, chứ Ngài biết tỏng rồi. Vả lại, Ngài hỏi là để chúng ta tự xác định niềm tin của chính mình, chứ không phải Ngài thử thách. Khi nghe Sư Phụ hỏi như vậy, các ông nói thật lòng: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.
Rồi Ngài lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Vốn tính cương trực, ông Simon Phêrô thưa ngay: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Ngài nói với ông: “Này anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Rồi Ngài cho ông biết thêm: “Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ngay lúc ông Phêrô “đón nhận” chìa khóa Nước Trời cũng là lúc ông trở thành Giáo hoàng tiên khởi của Giáo Hội. Đúng là ngư phủ Phêrô diễm phúc thật!
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin giúp con can đảm tuyên xưng Ngài trước mặt mọi người, mọi nơi và mọi lúc, luôn ngoan cường chiến đấu bằng cả đức tin và đức mến, xin đừng bỏ mặc con nản chí sờn lòng, dù cho con gặp phải nỗi đau điều khổ hằng ngày. Lạy nhị vị thánh nhân Phêrô và Phaolô, xin nguyện giúp cầu thay và đồng hành với con trong cuộc chiến cam go nơi trần gian này, với đức tin vững chắc như đá và đức mến sắc bán như gươm. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU