HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ ĐỨC MẸ LÊN TRỜI A (15/08)
Kh 11,19a; 12,1-6a.10ab; 1 Cr 15,20-26; Lc 1,39-56
ĐỨC MA-RI-A CÓ PHÚC VÌ ĐÃ TIN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 1,39-56
(39) Hồi ấy, bà Ma-ri-a lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. (41) Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được tràn đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.(46) Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, (47) thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi (48) Phận tỳ nữ hèn mọn Người đoái thương nhìn tới. Từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. (49) Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn ! (50). Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. (51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. (52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế. Ngươi nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. (53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư. Người giàu có, lại đuổi về tay trắng. (54) Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, (55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót, dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”. (56) Bà Ma-ri-a ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng có thể được chia thành ba phần như sau:
– Phần I (39-40): Sau khi trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế do lời thưa “xin vâng”, Đức Ma-ri-a vội vã lên đường thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đã có thai được 6 tháng, như lời sứ thần cho biết. Hai bà mẹ đều được chúc phúc vì đã quảng đại đáp lời mời gọi, cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
– Phần II (41-46a): Thần Khí tác sinh và hoan lạc đã bao trùm Đức Trinh Nữ, cũng làm cho con trẻ Gio-an đang ở trong dạ mẹ nhảy mừng, chào đón Đấng Thiên sai trong lòng Đức Ma-ri-a. Thần Khí ấy cũng tác động làm cho bà Ê-li-sa-bét nhận biết cô em họ Ma-ri-a đây, chính là Mẹ của Đấng Thiên Sai, đã đến viếng thăm mình. Cũng chính Thần Khí ấy làm cho niềm vui của Đức Ma-ri-a bộc phát thành bài ca “Ngợi khen” (Magnificat).
– Phần III (46b-56): Bài ca tóm lại lịch sử của dân Chúa trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Cách riêng Chúa đã làm cho Ma-ri-a những điều trọng đại, cũng như đã từng làm trong lịch sử dân It-ra-en: Người hạ những kẻ quyền thế kiêu căng xuống và nâng những người hèn mọn khiêm nhường lên; ban cho kẻ nghèo khó được no đầy ơn phúc và để người giàu có bị đuổi về tay không. Người luôn phù trì cho dân tộc Ít-ra-en, đúng như lời Người đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham, rằng sẽ thương xót ông và con cháu đến muôn đời.
3. CHÚ THÍCH:
– C 39: + Lên đường vội vã: Chỉ một thời gian ngắn sau biến cố Truyền tin, Đức Ma-ri-a đã vội vã lên đường đến thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét (hay cũng gọi là I-sa-ve), mà sứ thần đã cho biết bà mới có thai được 6 tháng. Bà này đã chịu tủi hổ trước mặt người đời, vì bị son sẻ không con. + Đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa: Thành mà Đức Ma-ri-a định tới là một trong mười một địa hạt miền Giu-đê. Nhiếu người nghĩ đó là A-in Ka-rim, cách thủ đô Giê-ru-sa-lem 6 cây số về phía Tây. Con đừong từ Na-da-rét đến A-in Ka-rim dài 150 cây số.
– C 40-41: + bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét: Cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ chính là cơ hội để thai nhi Giê-su gặp gỡ thai nhi Gio-an là tiền hô của Người. + Đứa con trong bụng nhảy lên: Gio-an Tẩy Giả bắt đầu sứ vụ ngôn sứ bằng động tác nhảy mừng trước Đấng Thiên Sai (Mêsia) đang ẩn mình trong dạ mẹ, giống như vua Đa-vít xưa đã nhảy mừng khi ra đón Hòm Bia Giao Ước. Truyền thống coi sự kiện này là dấu hiệu Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền. + Bà được đầy ơn Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã tác động khiến bà Ê-li-sa-bét cảm nhận được cô em họ Ma-ria là Mẹ Đấng Mê-si-a đã mang Người đến viếng thăm nhà mình.
– C 42-44: + Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc: Bà Ê-li-sa-bét ca tụng Ma-ri-a diễm phúc hơn mọi phụ nữ, vì thai nhi trong lòng Ma-ri-a là Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. + Bởi đâu tôi được thân mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này ?: “Chúa tôi” ở đây là danh xưng của Đấng Mê-si-a. Nhờ được Thần Khí tác động mà bà Ê-li-sa-bét đã nhận ra Chúa của mình là Thai nhi mà cô em Ma-ri-a đang cưu mang. Danh xưng Đức Giê-su là “Chúa” được Tin Mừng Lu-ca sử dụng đến 40 lần. + Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng: Ê-li-sa-bét chia sẻ cho Ma-ri-a sự lạ mà bà vừa cảm nghiệm. Đó cũng là lý do khiến bà nhận biết Đức Ma-ri-a đang cưu mang Thai Nhi Cứu Thế.
– C 45: + Em thật có phúc, vì đã tin: Ma-ri-a đã tin vào những lời Chúa phán với mình khi sứ thần truyền tin sẽ được thực hiện, và trở thành người tín hữu đầu tiên của thời Tân Ước. Ngược lại với ông Da-ca-ri-a chồng bà vì không tin và đòi thấy dấu lạ, nên đã bị câm cho đến khi các điều sứ thần nói xảy ra (x. Lc 1,20).
– C 46-50: +“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa: Sau khi nghe bà Ê-li-sa-bét khen là có phúc, Ma-ri-a đã quy hướng lời ca khen đó về cho Thiên Chúa trong bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat). Bài này mô phỏng theo bài ca mà bà An-na là mẹ của ngôn sứ Sa-mu-en, sau khi được Đức Chúa cho sinh con trai và mang đứa trẻ lên Đền Thờ tại Si-lô thời Tư tế Ê-li, để thánh hiến dâng cho Đức Chúa (x. 1 Sm 2,1-10). Kinh này nhấn mạnh hai đìều: Một là người nghèo hèn bé mọn được Chúa bênh vực (x. Xp 2,3 ; Mt 5,3); Hai là dân Ít-ra-en được Chúa tuyển chọn và yêu thương (x. Đnl 7,6). Đức Ma-ri-a đã hát lên bài ca này để bày tỏ lòng tri ân của mình (cc 46-49) và của toàn dân It-ra-en (cc 50-55), vì nay đã đến thời điểm lời hứa cứu độ của Đức Chúa được thực hiện.
– C 51-55: + Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh: Chúa dùng quyền năng để can thiệp và bênh vực người hèn yếu (x. Tv 118,15-16). + Vì Người nhớ lại lòng thương xót: Cựu Ước thường ghi là “Thiên Chúa nhớ lại” để diễn tả việc Người luôn trung thành với lời hứa và thi hành những lời Ngừơi đã phán qua các ngôn sứ (x. St 8,1; 9,15; Xh 2,24). Lu-ca cũng không quên ghi lại lời chúc tụng tương tự trong bài ca của Da-ca-ri-a trước đó: “Người nhớ lại lời xưa giao ước” (Lc 1,72).
– C 56: + Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng: Ở lại để giúp đỡ bà chị Ê-li-sa-bét, làm các việc nhà thay cho bà trong thời kỳ cuối trước khi bà sinh con. Nhưng Đức Ma-ri-a chỉ phục vụ đúng mức mà thôi. + rồi trở về nhà: Một tuần sau ngày bà Ê-li-sa-bét sinh nở, sau khi con trẻ được đặt tên và chịu phép Cắt Bì để được gia nhập vào dân Ít-ra-en, thì Đức Ma-ri-a đã trở về quê nhà là thành Na-da-rét.
4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến Đức Ma-ri-a vội vã lên đường viếng thăm bà chị họ Ê-li-sa-bét ? 2) Truyền thống Công Giáo khẳng định Gio-an Tẩy Giả được khỏi tội tổ tông truyền từ lúc nào ? 3) Bà Ê-li-sa-bét được đầy Thánh Thần đã gọi Đức Ma-ri-a bằng tước hiệu gì ? 4) Tại sao bà Ê-li-sa-bét khen Đức Ma-ri-a diễm phúc, khác với ông Gia-ca-ri-a chồng bà ? 5) Bài kinh “Ngợi khen Thiên Chúa” (Magnificat) có nguồn gốc thế nào trong Cựu Ước và nội dung nhấn mạnh những gì ? 6) Đức Ma-ri-a ở lại nhà bà Ê-li-sa-bét trong bao lâu và ở lại để làm gì ?
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Bà Ê-li-sa-bét được tràn đầy Thánh Thần đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ” (41-42a),… và: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (45). Bấy giờ bà Ma-ri-a nói: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (46).
2. CÂU CHUYỆN VÀ LỊCH SỬ NGÀY ĐẠI LỄ:
1) MẸ MA-RI-A HẰNG CỨU GIÚP NHỮNG AI CHẠY ĐẾN VỚI NGƯỜI:
ĐU-LỚT HAI-ĐƠ (Douglas Hyde) vốn là một người vô tín và thù ghét đạo Công giáo. Ông là chủ bút một tờ báo lớn ở nước Anh. Với tư cách là chủ bút, ông nghiên cứu về Giáo hội để viết những bài phê bình chống đối gay gắt. Tuy nhiên một điều lạ lùng đã xảy ra, là ông càng nghiên cứu về giáo lý bao nhiêu, thì tâm trí ông lại càng thêm tin tưởng vào các chân lý ấy bấy nhiêu. Tuy vậy ông vẫn chưa quyết định dứt khóat tin theo đạo ngay.
Một hôm, trên đường từ nhà đến tòa soạn ở trung tâm thủ đô Luân Đôn, lúc xe lửa đến trạm dừng, Đu-Lớt thấy tấm biển ghi “Nhà thờ Công giáo” ở bên đường, ông liền thử vào bên trong nhà thờ xem sao. Ông ngồi vào hàng ghế ở cuối nhà thờ và rồi thắc mắc tại sao mình lại có mặt ở đây? Bấy giờ ông thấy một cô gái bước vào nhà thờ, nét mặt âu lo buồn khổ. Cô ta đi thẳng đến trước tòa Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp bên trái cung thánh nhà thờ và quỳ dưới hình Đức Mẹ một hồi lâu. Sau đó, cô đứng dậy đi xuống cuối và ra khỏi nhà thờ. Khi cô đi ngang, Đu-lớt nhận thấy nét mặt của cô ta đã bình thản trở lại chứ không còn lo âu sầu não như khi mới bước vào nhà thờ.
Ngay lúc đó Đu-lớt quyết định thử làm theo cô gái là cũng đến quỳ trước ảnh Đức Mẹ. Sau này ông đã viết trong cuốn “tôi tin” (I believed) như sau: “Tôi không biết người ta đã cầu nguyện với Đức Mẹ thế nào ? Cuối cùng tôi nghe thấy chính mình sắp nói ra một điều gì đó thích hợp. Tuy nhiên khi bắt đầu thốt ra thì tôi lại thấy lời đó có vẻ kỳ cục làm sao ! Nhưng điều này không quan trọng gì. Tôi biết rõ là sự tìm kiếm bấy lâu nay của tôi đã đạt tới đích… Lúc ra khỏi nhà thờ, tôi cố gắng hồi tưởng lại những gì tôi nói và hầu như tôi bật cười khi nhớ lại những lời ấy. Chúng giống hệt những lời ngân lên trong một điệu khiêu vũ !” Cuối cùng Đu-lớt đã đạt tới đức tin vào Chúa Giê-su qua lời cầu bầu của Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
2) ĐỨC MA-RI-A HÒM BIA THIÊN CHÚA:
+ LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA HÒM BIA GIAO ƯỚC: Hòm bia hay Khám Giao Ước là một chiếc thùng được làm bằng gỗ keo hình chữ nhật, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi. Được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài (x. Xh 37, 1-2). Bên trong chứa đựng hai tấm bia ghi Mười điều răn do chính Thiên Chúa viết và ban cho dân It-ra-en qua trung gian của Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 20,1-17; Đnl 5,2-21). Về sau Mô-sê còn viết sách Luật và truyền đặt bên cạnh Hòm Bia (x. Đnl 31,24-27). Trên Hòm Bia có một cái nắp đậy được gọi là Nắp Xá Tội. Hai bên đầu nắp có hai bức tượng thần hộ giá (Kê-ru-bim) bằng vàng gò đặt đối diện nhau và cùng cúi mặt xuống nắp. Hai tượng này có cánh giương lên và phủ trên nắp (x. Xh 25,18-20). Chính nơi Hòm Bia này mà Đức Chúa hiện ra nói chuyện với dân Người và đáp lại lời họ kêu xin (x. Xh 25,22; 1 Sm 4,4). Trong cuộc hành trình qua sa mạc, Hòm Bia Giao Ước luôn được khiêng đi trước dẫn đường cho dân Ít-ra-en. Vua Đa-vít đã đem cả Hòm Bia Giao Ước lẫn Lều Thánh về Giê-ru-sa-lem và làm cho thành này trở thành trung tâm của Vương quốc cả về chính trị lẫn tôn giáo. Vua Sa-lô-môn đã đặt Hòm Bia Giao Ước vào nơi Cực Thánh của Đền Thờ sau khi xây dựng xong. Đối với nhà vua cũng như toàn dân, Hòm Bia Giao Ước mang ý nghĩa lãnh đạo và che chở, đồng thời cũng là lời khuyến cáo phải sống theo thánh ý Thiên Chúa đang ngự giữa dân Người. Sau khi đế quốc Ba-by-lon tàn phá Đền thờ Giê-ru-sa-lem vào năm 587 trước Công Nguyên, họ cũng phá hủy cả Hòm Bia Giao Ước. Từ đó tất cả ý nghĩa của Hòm Bia Giao Ước đều chuyển sang Đền Thờ thứ hai và thành thánh Giê-ru-sa-lem, được coi là ngai tòa và là bệ chân của Thiên Chúa.
+ ĐỨC MA-RI-A, HÒM BIA CỦA GIAO ƯỚC MỚI: Trong Tân Ước, Đức Ma-ri-a được công nhận là nơi Thiên Chúa cư ngụ, giống như Hòm Bia của Giao Ươc mới. Nơi Đức Ma-ri-a, quyền năng của Thiên Chúa đã được tỏ hiện, đúng như sứ thần đã nói với Người: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Bà” (Lc 1,35). Thực vậy, vinh quang Thiên Chúa đã bao phủ trên Ma-ri-a giống như cột mây cột lửa đã rợp bóng trên dân It-ra-en để bang trợ, phù giúp dân vượt qua biển Đỏ về miền Đất Hứa (x. Xh 14,19-20). Trong biến cố Truyền tin, ngay sau lời thưa “Vâng” của Người, Thánh Thần đã tác động làm cho Đức Ma-ri-a thụ thai mà vẫn còn trinh khiết, và Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập vào Thai nhi ấy, trở thành người có xác có hồn giống như chúng ta (x. Lc 1,38), ngoại trừ không có tội. Đó là Mầu Nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể. Tóm lại, Đức Ma-ri-a cũng đựơc ví như Hòm Bia của Giao Ước Mới, nơi mà “Lời Thiên Chúa đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (x. Ga 1,14), và Đức Giê-su trở thành Đấng “Em-ma-nu-en” Nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1,23). Đức Ma-ri-a là Mẹ cưu mang Hài Nhi Giê-su trong lòng, nên Người cũng được ví như Hòm Bia Thiên Chúa.
3) LỊCH SỬ TÍN ĐIỀU ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI:
+ Từ thuở ban đầu, các giáo đoàn tiên khởi đều tôn kính Đức Trinh Nữ Ma-ri-a. Từ những đoạn Thánh Kinh Tân Ước, đến các giáo phụ, rồi Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431 đã tuyên bố “Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa”. Đã có những lễ nói đến lúc chấm dứt cuộc đời của Đức Ma-ri-a như: Lễ Đức Mẹ An Giấc (dormitio), Lễ Đức Mẹ Chuyển Biến (Transitus), Lễ Đức Mẹ Sinh Ra Trên Trời (Natalis), Lễ Đức Mẹ được Nâng Lên Trời (Assumptio).
+ Riêng Lễ Đức Mẹ An Giấc (Dormitio) đã được long trọng cử hành đó đây trong Giáo Hội Đông Phương. Nhất là từ sau Công đồng chung Ê-phê-sô năm 431, nhưng mãi đến thế kỷ thứ 7, lễ này mới được du nhập vào Giáo Hội Tây Phương.
Từ đó về sau nhiều thư thỉnh nguyện của các giám mục, các dòng tu, các nhà thần học được gửi đến Đức Giáo Hoàng để xin Ngài định tín về việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Trong Công đồng Va-ti-ca-nô I, nhiều nghị phụ cũng yêu cầu Đức Thánh Cha quyết định điều đó, vì theo các ngài thì việc Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời có liên quan mật thiết với đức đồng trinh và chức vụ làm mẹ Đấng Cứu Thế của Ngài. Hơn nữa, vì Mẹ đã được cứu chuộc hoàn toàn, nên cũng phải được tôn vinh toàn diện như lời thánh Phao-lô: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến người, tức là cho những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,28-29). Dựa theo các thỉnh nguyện thư đó, năm 1946, Đức Pi-ô 12 đã gửi đến mỗi giám mục một lá thư và yêu cầu trả lời như sau: “Đức cha và hàng giáo sĩ, giáo dân trong giáo phận của Đức cha, có xác tín và có muốn công bố việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời như một tín điều hay không ?” Hầu hết các thư trả lời đều đồng ý và thỉnh nguyện như vậy. Thế là vào ngày 1.11.1950, Đức Pi-ô 12 đã long trọng tuyên bố tín điều Đức Ma-ri-a Hồn Xác Lên Trời cho toàn thể Giáo Hội tin kính và mừng chung vào ngày 15 tháng 8 hằng năm.
+ Đức Thánh Cha đã xác quyết: “Thế nên Đức Thánh Mẫu cao cả, ngay từ đời đời và do cùng một quyết định tiền định, đã được kết hợp với Đức Giê-su Ki-tô một cách huyền nhiệm, vô nhiễm khi đầu thai, đồng trinh vẹn sạch khi làm Mẹ, cộng tác quảng đại với Đấng Cứu Thế, Đấng đã chiến thắng hoàn toàn sự tội và các hiệu quả của nó, thì cuối cùng để kết thúc mọi đặc ân ngài đã được, Đức Trinh Nữ cũng đã gìn giữ khỏi bị hư nát ở trong mồ, để nên giống Con Mình. Sau khi chiến thắng sự chết, ngài cũng được tôn vinh trên trời cả hồn lẫn xác, nơi Ngài được sáng láng làm Nữ Vương ngự bên hữu Con mình là Vua bất tử của mọi thời” (trích CGKPV trang 334).
4) NHỮNG BẰNG CHỨNG THẦN HỌC:
Ngoài truyền thống hay Thánh Truyền là ký ức tông truyền, Giáo Hội còn dựa trên một số đoạn Thánh Kinh cho thấy Mẹ Thiên Chúa liên kết rất mật thiết với Con Mình và luôn chia sẻ tất cả thân phận của con, để xác tín đặc ân Hồn Xác Lên Trời của Mẹ:
+ “Dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu mi” (St 3,14-15): Câu này có ba cách hiểu: Một là “Sự chiến thắng của dòng giống người đàn bà trên dòng giống con rắn” (Bản văn tiếng Do Thái). Hai là “Người đàn bà sẽ đạp lên đầu mi” (Bản văn tiếng La Tinh), khẳng định vai trò của Mẹ Đấng Mê-si-a trên con rắn hỏa ngục là ma quỷ (x. Kh 12,13.17). Ba là “Người đó sẽ đánh vào đầu mi” (Bản văn Bảy mươi tiếng Hy Lạp), được hiểu là Đức Giê-su, Đấng sẽ chiến thắng con rắn ma quỷ.
+ “Đấng đầy ân sủng, luôn được Thiên Chúa ở cùng” (x. Lc 1,28): Đầy ơn phúc và luôn có Chúa tức là hoàn toàn trong sạch thánh thiện, nên Người không phải chết như loài người chúng ta. “Bà sẽ thụ thai, sinh một con trai và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31): Đức Ma-ri-a được chọn làm Mẹ Đấng Thiên Sai, Đấng sẽ thay vua Đa-vít cai trị Ít-ra-en và triều đại của Người sẽ luôn vững bền.
+ Đức Ma-ri-a là E-và Mới: Đã cộng tác với Đức Giê-su là A-Đam mới, để vâng phục Chúa Cha (x. Rm 5,12-19 ; PI 2,6-11). Mẹ đã tích cực cộng tác với Đức Giê-su trong cuộc khổ nạn (x. Ga 19,25), thì cũng được dự phần vào sự phục sinh vinh quang với Người.
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ ĐỨC GIÊ-SU:
Là Mẹ đã thụ thai và hạ sinh Đức Giê-su: Tin Mừng Lu-ca thuật lại việc Đức Trinh Nữ Ma-ri-a đã được Thiên Chúa tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế nhờ có Chúa ở cùng, và luôn kết hiệp mật thiết với Người. Sau lời thưa “xin vâng”, Ma-ri-a đã đuợc thụ thai mà vẫn bảo toàn đức trinh khiết nhờ quyền năng Thánh Thần (x. Lc 1,28-38). Sau đó Ma-ri-a theo “Ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê lên thành Bê-lem, miền Giu-đê là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” (Lc 2,4-7).
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ HỘI THÁNH:
+ Tin Mừng Gio-an viết: “Đứng gần thập giá Đức Giê-su có Thân Mẫu Người, chị của thân mẫu là bà Ma-ri-a vợ ông Cơ-lô-pát, cùng với bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước Bà về nhà mình (Ga 19,25-27).
+ Thánh Phao-lô cũng dạy: “Thiên Chúa đặt Người làm Đầu toàn thể Hội Thánh. Mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng làm cho tất cả được viên mãn” (x. Ep 1,22b-23); “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18). Như vậy Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su là Đầu, thì cũng là Mẹ của thân thể Đức Giê-su là Hội Thánh, trong đó có mỗi tín hữu chúng ta.
+ Người là gương khiêm nhường cho các tín hữu qua việc luôn lắng nghe Lời Chúa, tìm hiểu ý Chúa và mau mắn xin vâng (x. Lc 1,30-36). người cũng nêu gương bác ái khi chủ động thăm viếng bà chị họ Ê-li-sa-bét, đem niềm vui ơn cứu độ đến cho gia đình Gia-ca-ri-a, làm cho thai nhi Gio-an “nhảy mừng’ vì được khỏi tội tổ tông truyền. Sau đó Người còn ở lại 3 tháng để phục vụ, giúp đỡ công việc nhà cho bà Ê-li-sa-bét trong ba tháng, trước khi trở về nhà mình (x. Lc 1,39-56). Người cũng quan tâm đến đôi tân hôn trong bữa tiệc cưới bị thiếu rượu tại thành Ca-na khi đứng ra cầu thay nguyện giúp đội tân hôn với Đức Giê-su, xin Người can thiệp giúp đôi tân hôn. Dù Giờ chưa đến, nhưng Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên là biến nước lã trở thành rượu ngon để giúp đôi tân hôn này (x. Ga 2,1-11).
3) ĐỨC MA-RI-A LÀ NGƯỜI CÓ PHÚC:
Ma-ri-a đầy ơn phúc và được Chúa luôn ở cùng như lời chào của sứ thần truyền tin (x. Lc 1,28).
+ Ma-ri-a đầy ơn phúc vì tâm hồn Mẹ trong sạch và luôn kết hiệp với Chúa.
+ Ma-ri-a có phúc vì đã tin: Bà Ê-li-sa-bét đã ca tụng Đức Ma-ri-a rằng: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng: Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
+ Ma-ri-a có phúc vì được làm Mẹ Đức Giê-su. Là Hòm Bia Giao Ước Mới, Đức Maria chứa đựng chính Ngôi Lời Thiên Chúa làm người, để ở cùng chúng ta (x. Ga 1,14; Mt 1,23).
+ Nhưng nhất là có phúc vì đã trở thành môn đệ Đức Giê-su như Đức Giê-su đã đáp lại lời một phụ nữ khen ngợi người mẹ đã có công sinh thành nuôi dưỡng Người: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27-28). Do đó, Đức Giáo Hòang Phao-lô VI đã gọi Đức Ma-ri-a là “môn đệ tiên khởi và tuyệt hảo nhất của Đức Ki-tô”.
4) ĐỨC MA-RI-A LÊN TRỜI ĐỂ CHUYỂN CẦU CHO CHÚNG TA:
+ Việc Hội Thánh tuyên bố tín điều “Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời” dạy chúng ta phải ý thức về thiên đàng đời sau. Chúng ta chỉ được lên trời nếu ngay từ đời này đã sống theo Lời Chúa Giê-su và đi con đường đau khổ thập giá của Người như Đức Ma-ri-a xưa.
+ Đức Ma-ri-a lên trời, nhưng luôn cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta là con cái Người. Ta hãy xin ơn được chết lành trong tay Đức Mẹ và sau này được hưởng hạnh phúc thiên đàng cùng Mẹ.
+ “Đến với Chúa Giê-su nhờ Mẹ Ma-ri-a” (Ad Jesum per Mariam): Chúng ta cần hiệp cùng Mẹ Ma-ri-a mỗi khi cầu nguyện với Thiên Chúa, noi gương Hội Thánh thời sơ khai (x. Cv 1,14). Ta hãy gắn bó với Mẹ và nhờ Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su ban ơn lành hồn xác cho ta như Mẹ đã làm cho đôi tân hôn tại tiệc cưới thành Ca-na (x. Ga 2,3).
+ Sống đức Tin, Cậy, Mến với Chúa noi gương Đức Mẹ: Tin những Lời Chúa phán, tìm hiểu ý Chúa dạy và sẵn sàng xin vâng ý Chúa, chấp nhận mọi may rủi xảy đến với lòng cậy trông phó thác.
4. THẢO LUẬN: 1) Việc về trời của Đức Mẹ hôm nay giống và khác với việc lên trời của Chúa Giê-su ra sao ? 2) Ngay từ bây giờ chúng ta phải làm gì để sau này cũng được Chúa ban hạnh phúc lên trời với Mẹ ?
5. NGUYỆN CẦU:
1) LẠY CHÚA BA NGÔI CỰC THÁNH. Hôm nay con cảm tạ Chúa vì Chúa đã thực hiện việc lớn lao nơi Đức trinh Nữ Ma-ri-a, là người con thân yêu và là nữ tỳ hèn mọn của Chúa. Chúa đã thương cho Mẹ trở nên giống Con mình là Chúa Giê-su: nhờ giữ đức trinh khiết vẹn toàn, tâm hồn không vương chút bùn nhơ tội lỗi; Nhờ biết đặt trọn niềm tin vào lời Chúa phán sẽ được thực hiện; Nhờ luôn xin vâng ý Chúa để trở thành Mẹ Đấng Thiên Sai; Nhờ biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa; Nhờ tham phần với nỗi đau khổ của Chúa Giê-su trên đường thánh giá… mà Mẹ Ma-ri-a đã được Chúa ban thưởng bội hậu là được lên trời cả hồn lẫn xác.
2) LẠY ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ RẤT NHÂN TỪ. “Xin hãy nhớ xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ, xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ chối chẳng nhậm lời”. Hôm nay cùng với Hội thánh hoàn cầu, chúng con long trọng mừng lễ Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Xin cho chúng con biết chạy đến với Mẹ trong những khi phải cơn gian nan thử thách, những khi con thất bại trong việc làm ăn, những lúc con không biết phải làm gì để vượt qua hoàn cảnh khó khăn… Trong những giờ phút đau thương ấy, xin cho chúng con biết chạy đến nép mình dưới tà áo Mẹ, để được Mẹ che chở ủi an, để được Mẹ cầu bầu cùng Chúa Giê-su, ban cho chúng con các ơn lành hồn xác. Nhất là xin Mẹ đừng để khi nào chúng con đi vào con đường lầm lạc. Xin dạy chúng con luôn lắng nghe Lời Chúa Giê-su là con yêu của Mẹ, như Mẹ đã dạy các người giúp việc trong tiệc cưới Ca-na xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM