Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin mừng Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, của Trầm Thiên Thu

Suy niệm Tin mừng Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, của Trầm Thiên Thu

MÃN NGUYỆN

LeDucMeDangChuaGiesu, 2-2] MAN NGUYENKinh Thánh nói: “Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang” (Sbn 16:28; Tv 29:1; Tv 96:7). Tất cả đều thuộc về Chúa. Có nhiều thứ cần dâng, và dâng là việc cần làm của người Công giáo. “Dâng ngày” là việc đầu tiên cần làm mỗi ngày khi thức dậy: “Ngày nay con dâng cho Chúa, xin Chúa thương nhận lòng trí của con, mọi cơn gian nan nguy biến, con xin dâng cầu theo ý Đức giáo hoàng sớm hôm”. Đó là bài học dâng từ hồi nhỏ học giáo lý.

Còn nhiều thứ phải dâng, đặc biệt là dâng cả cuộc đời cho Thiên Chúa, bởi vì con người quá yếu đuối, mà cuộc đời có quá nhiều cạm bẫy. Đó là tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, cũng gọi là tận hiến.

TIẾN DÂNG

Lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh còn gọi là Lễ Nến, Lễ Thanh Tẩy hoặc Lễ Tẩy Trần. Lễ này là lễ kính nhớ việc Đức Maria được thanh tẩy theo luật Môsê: phụ nữ sau khi sinh con thì bị coi là ô uế trong 40 ngày nếu sinh con trai, 60 ngày nếu sinh con gái (Lv 12:5).

Cựu Ước có đề cập việc tiến dâng “của lễ đầu mùa” theo luật: “Chúng tôi buộc mình hàng năm phải đem dâng vào Nhà Đức Chúa những thổ sản đầu mùa của chúng tôi và tất cả hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, cũng như các con trai đầu lòng của chúng tôi và của thú vật, như đã chép trong Lề Luật. Các con đầu lòng của bò, ngựa, chiên, dê đem tới Nhà Thiên Chúa cũng dành cho các tư tế đang phục vụ Nhà Thiên Chúa chúng tôi. Phần tốt nhất trong số bột xay, trong những của trích dâng, hoa trái đầu mùa mọi thứ cây, rượu mới và dầu tươi, chúng tôi sẽ đem dâng các tư tế tại các phòng trong Nhà Thiên Chúa chúng tôi” (Nkm 10:36-37).

Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào đền thánh và thanh tẩy Đức Trinh Nữ đã được Thánh sử Luca ghi lại (x. Lc 2:22-40). Sự kiện này nhằm thực hiện những lề luật đã được ghi rõ trong Cựu Ước: “Khi mãn thời gian thanh tẩy, dù sinh con trai hay con gái, nó phải đem đến cho tư tế, ở cửa Lều Hội Ngộ, một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu, và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Tư tế sẽ tiến dâng chúng trước nhan Đức Chúa và cử hành lễ xá tội cho nó và nó sẽ được thanh tẩy sau khi đã xuất huyết. Nếu không có phương tiện kiếm được chiên, thì nó sẽ bắt một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non, một con để làm lễ toàn thiêu, một con để làm lễ tạ tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội cho nó, và nó sẽ ra thanh sạc” (Lv 12:6-8).

Lễ này được du nhập vào Đế quốc Đông Phương dưới triều vua Justinianô (527-565). Đối với Giáo hội tại Tây phương, lễ này được nhắc đến trong sách bí tích của ĐGH Gelasianô (thế kỷ VII). Từ cuối thế kỷ IV, Giáo hội tại Giêrusalem đã mừng kính lễ này. Giáo hội tại Hy Lạp và Milanô kể lễ này vào một trong các lễ trọng kính Chúa Giêsu, dạng nghi lễ chính trong năm. Giáo hội tại Rôma lại kể lễ này vào số các lễ kính Đức Trinh Nữ Maria.

Trong thông điệp về lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria, ĐGH Phaolô VI viết: “Lễ ngày mùng 2 tháng 2, được cải tên là Lễ Dâng Chúa Vào Đền Thánh, cũng cần nhắc nhở để hưởng nguồn phong phú lớn lao của ân sủng Chúa Giêsu và Maria đi song song. Đức Kitô thực hiện mầu nhiệm cứu độ. Maria mật thiết kết hợp với Chúa chịu khổ hình, để thực hiện một sứ mạng vừa thuộc về Dân Chúa của Cựu ước, vừa là hình ảnh của Dân Tân ước luôn luôn vị bắt bớ gian khổ, thử thách đức tin và lòng trông cậy” (Tông thư Marialis Cultur, số 7b).

Trong ngày lễ này, nến được làm phép để tưởng nhớ lời tiên tri Simêon gọi Đức Kitô là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (Lc 2:32), các giáo xứ thường tổ chức rước kiệu nến trong nhà thờ để nhớ đến việc Đức Giêsu tiến vào Đền Thờ Giêrusalem, đồng thời cũng nhắc nhở các bậc cha mẹ dâng con cái cho Thiên Chúa.

Ngày xưa, chính Thiên Chúa đã tuyên phán: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta. Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm, đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mà các ngươi đợi trông đang đến” (Ml 3:1). Chúa Thượng đó chính là Thiên Chúa, Ngài “như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của thợ giặt” và “sẽ ngồi để luyện kim tẩy bạc, sẽ thanh tẩy con cái Lê-vi và tinh luyện chúng như vàng, như bạc” (Ml 3:2-3a). Chẳng ai chịu nổi nếu không nghiêm túc sống công minh chính trực và tuân thủ Luật Chúa.

Thật hạnh phúc cho những người đã được thanh tẩy, được tinh luyện. Ngôn sứ Malakhi cho biết: “Bấy giờ, đối với Đức Chúa, chúng sẽ là những kẻ đến dâng lễ vật, theo lẽ công chính. Lễ vật của Giuđa và của Giêrusalem sẽ làm đẹp lòng Đức Chúa như những ngày xa xưa, như những năm thuở trước” (Ml 3:3b-4).

Ôi, niềm hạnh phúc dâng trào. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hỡi cửa đền, hãy cất cao lên, cao lên nữa, hỡi cửa đền cổ kính, để Đức Vua vinh hiển ngự vào” (Tv 24:7 & 9). Đức Vua đó là ai? Đó là “Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng, Đức Chúa oai hùng khi xuất trận” (Tv 24:8 & 10). Nào, hãy đồng thanh hô vang tán dương Chúa suốt cả cuộc đời chúng ta: “Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19:38). Chúng ta ca tụng Chúa thì cũng chẳng thêm gì cho Ngài, không chỉ Ngài xứng đáng được tôn vinh mà chính chúng ta lại được cứu độ. Thật kỳ lạ biết bao!

Thánh Phaolô nói: “Vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2:14-15). Tại sao? Lý do thế này: “Vì những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu Áp-ra-ham. Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân” (Dt 2:16-17).

Tuy nhiên, có một lý do đặc biệt hơn: “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt 2:18). Đó là một thực tế minh nhiên. Vì về phương diện nhân loại, người ta chỉ có thể CHO những gì mình CÓ, không có thì không thể cho; hoặc người ta càng dày dạn kinh nghiệm thì người ta càng khôn ngoan, càng có thể tư vấn cho người khác.

Lễ này nhắc nhở về nhân đức tuân phục. Khi cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi, chúng ta cầu xin qua ngắm thứ tư Mùa Vui: “Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh, xin cho con được vâng lời chịu lụy”. Giáo hội dạy chúng ta cầu xin một nhân đức rất quan trọng trong cuộc sống, đặc biệt là đối với các Kitô hữu: “Vâng phục tốt hơn là dâng hy lễ” (1 Sm 15:22; x. Tv 50:8-9).

MÃN NGUYỆN

Tuân giữ luật Môsê khi đến ngày lễ thanh tẩy, Cô Maria và Chú Giuse đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa, vì Luật Chúa dạy: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa” (Lc 2:23). và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy, ở Giêrusalem có một người tên là Simêôn. Ông là người công chính và sùng đạo, vẫn mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa.

Hôm đó, sau khi được Thần Khí thúc đẩy, ông cũng lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền. Ông ẵm Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa bằng bài ca “An Bình Ra Đi” (Nunc Dimittis – Lc 2:29-32):

Giờ đây, lạy Chúa muôn loài

Theo như lời hứa của Ngài truyền xưa

Xin cho tôi tớ ra đi

Trong niềm thư thái chan hòa bình an

Vì Ơn Cứu Độ Ngài ban

Bày ra trước mặt người trần chúng sinh

Lương dân được ánh quang vinh

Muôn dân được hưởng phần mình vinh quang

Tận mắt thấy Đấng Cứu Độ, ông Simêôn không chỉ mãn nhãn mà còn mãn nguyện, và không còn ham gì ở thế gian mà sẵn sàng “ra đi” (qua đời). Điều đó cho thấy ông vô cùng hạnh phúc vì hoàn toàn mãn nguyện, không mong gì hơn nữa.

Sau khi nghe những lời ông Simêôn “nói tiên tri” về Người Con, cả Cô Maria và Chú Giuse đều rất ngạc nhiên. Ông Simêôn chúc phúc cho hai Cô Chú, và nói với Cô Maria: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính Cô, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Cô” (Lc 2:34-35). Một lời tiên tri rất “lạ lùng” và đáng “quan ngại”. Nhưng Cô Maria vẫn không hề bàng hoàng, mà chỉ thầm lặng ghi nhớ và suy niệm hằng ngày.

Người ta vẫn cho rằng tin vào số mệnh là mê tín hoặc dị đoan. Nhưng không phải vậy đâu, bởi vì mỗi người đều được Thiên Chúa quan phòng và tiền định từ đời đời, nghĩa là ai cũng có một số mệnh theo ý muốn của Thiên Chúa. Thật vậy, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Đức Chúa là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung, đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người. Thế nên tôi được Đức Chúa trân trọng, và Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi” (Is 49:5). Và Thánh Phaolô cũng nói: “Chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để SỐNG mà THỰC HIỆN công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Đó là “số mệnh” hoặc “định mệnh” của mỗi Kitô hữu.

Thánh sử Luca cho biết thêm: Cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuên, thuộc chi tộc Ase, đã tám mươi tư tuổi. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở goá. Bà không rời bỏ Đền Thờ, luôn ăn chay, cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.

Sau khi thực hiện mọi việc xong xuôi đúng như Luật Chúa truyền, Cô Maria và Chú Giuse trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê.

Đối với các Kitô hữu chúng ta cũng đã được thanh tẩy qua Bí tích Rửa tội, được thánh hóa qua Bí tích Thêm sức, rồi lại thường xuyên được thanh tẩy qua Bí tích Hòa giải. Cuộc đời Kitô hữu là một chuỗi dài của Ơn Thánh và không ngừng tẩy rửa linh hồn. Vì thế, chúng ta phải không ngừng nỗ lực noi gương Đức Kitô để sao cho có thể “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (Lc 2:40). Thế thì thật tuyệt!

Lạy Thiên Chúa là Chúa tể càn khôn, xin thương tẩy rửa con sạch các lỗi lầm để con xứng đáng mà dâng trọn cuộc đời cho Ngài, vì chỉ có Ngài mới thỏa mãn niềm khát khao, và con ước mong sao có thể giống như ngọn nến chiếu soi những nơi tăm tối. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …