Lễ Thăng Thiên tưởng niệm vừa một biến cố hữu hình, mà các Tông Đồ là những nhân chứng: cuộc lên trời của Đức Giê-su, và một biến cố vô hình: việc tôn vinh Chúa Con trở về cùng Chúa Cha.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Cv 1: 1-11
Sách Tông Đồ Công Vụ tường thuật biến cố lên trời hữu hình: sau khi đã ban cho các môn đệ của Ngài những huấn lệnh sau cùng, Đức Giê-su biến mất vào trong đám mây trước mắt các ông.
Ep 1: 17-23
Trong thư gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô ca ngợi biến cố lên trời vô hình: việc tôn vinh Chúa Con bởi Chúa Cha, Đấng đặt Ngài trên muôn loài muôn vật và thiết lập Ngài làm đầu Giáo Hội. Biến cố này thiết lập niềm hy vọng lớn lao của Kitô hữu là được dự phần vào vinh quang nầy, bởi vì Giáo Hội là “thân thể” của Đức Kitô.
Mt 28: 16-20
Trong Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu tường thuật một cuộc gặp gỡ duy nhất của Đức Kitô phục sinh với các Tông Đồ của Ngài trên núi Ga-li-lê ở đó Đức Giê-su mặc khải cho họ rằng Ngài đã đón nhận mọi quyền năng và sai họ ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách Tông Đồ Công Vụ mà Chúa Nhật hôm nay trích phần đầu được trình bày như phần tiếp theo của sách Tin Mừng thứ ba, Tin Mừng của thánh Lu-ca: cũng một tác giả và cũng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô nào đó mà chúng ta không biết.
Thánh Lu-ca hoàn tất sách Tin Mừng của mình ở nơi biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được đem lên trời…” Lời tựa ngôn của sách Công Vụ Tông Đồ nêu lên hai lần cùng một sự kiện: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (1: 2) và “Nói xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (1: 9).
Như vậy, bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng và đầu sách Công Vụ, biến cố Thăng Thiên xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa khởi đầu: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô ở giữa con người, và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài; hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giê-su, và khởi đầu sứ mạng các Tông Đồ.
1. Hai biến cố Thăng Thiên:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:
– Biến cố Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng là cuộc trở về cùng Cha Ngài ngay sau biến cố Phục Sinh; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố thần linh tuyệt mức; và đó là sự tôn vinh của Chúa Con, sự tôn vinh mà Đức Giê-su xin trong lời nguyện của Ngài, trước lúc tử nạn: “Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).
– Biến cố Thăng Thiên thứ hai là cuộc lên trời hữu hình của Đức Giê-su trước mắt các Tông Đồ. Biến cố liên quan chủ yếu đến chúng ta : đó là bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của chúng ta.
2. Lý do của biến cố Thăng Thiên hữu hình:
Tại sao Đức Giê-su chọn cách thức ra đi xem ra ngoạn mục nầy, dù nhanh và kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, phải chăng Đức Giê-su không thể loan báo cho họ rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa, từ biệt họ rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày kể từ biến cố Phục Sinh?
Chúng ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách thức Đức Giê-su đã giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài trong suốt cuộc sống công khai của Ngài.
Ngài đã lên trời một cách hữu hình như vậy khi xưng mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời”. Với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống”(Ga 3: 13).
Đức Giê-su sử dụng cùng một hình ảnh khi tuyên bố mình là“bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Ngài nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống”. Cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời tương lai của Ngài.
3. Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”:
Nếu con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết bao ý nghĩa được chất chứa ở đây: nó hình thành nên một sự sóng đôi với bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa, giữa phép rửa của Ngài bởi Gioan và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài, để chuẩn bị thi hành sứ mạng của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho các môn đệ Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy. ..Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi.” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa…
4. Cần thiết phải có Chúa Thánh Thần:
Trước khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những chỉ bảo sau hết cho các ông và loan báo cho họ trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc đó một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”. Vì thế, giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập Ít-ra-en, vẫn còn đó. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới…Nhưng vào lúc nầy, vì chưa có sức mạnh của Chúa Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Không cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ bóng Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; cũng đám mây bao phủ Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”. Cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
6. Chiêm niệm và hành động:
Sức mạnh đến từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”. Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên vì Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.
Chính là lúc phải hành động chứ không là những lưu luyến vô bổ như lời nhắc nhở của thiên sứ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? …Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Họ phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi. Thật lý tưởng, vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình hướng về quê trời vừa biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 17-23)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô này được chọn là có chủ ý để tưởng niệm biến cố Thăng Thiên của Đức Kitô. Mặc dầu không nêu đích danh biến cố Thăng Thiên, nhưng thánh nhân cho biến cố nầy chiều kích thần học: Đức Giêsu về cùng Cha đón nhận vinh quang và uy quyền, đồng thời kêu mời mọi tín hữu hãy dự phần vào cùng một cuộc sống vinh quang nầy.
Thánh nhân viết từ Rô-ma trong cảnh giam cầm vào những năm 61-63. Trong những thư viết trong tù này, thánh nhân cho chúng ta những suy niệm cao vời của mình về mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Giáo Hội, “thân thể của Đức Kitô”.
Trong đoạn trích thư này, chúng ta có thể phân biệt hai phần: phần thứ nhất: lời cầu nguyện, và phần thứ hai: những mối liên hệ giữa Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội.
1. Lời cầu nguyện:
Trong những thư sau cùng của thánh Phao-lô, lời cầu nguyện càng lúc càng trở nên quan trọng. Tất cả những thư mà thánh nhân viết trong cảnh bị giam cầm đều đón nhận thể văn cầu nguyện. Thánh nhân nhắc đi nhắc lại: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Anh em hãy cầu nguyện trong mọi lúc”. Chính ngài cũng cho họ mẫu gương. Lời cầu nguyện của ngài luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha. Trong bản văn nầy, Chúa Cha đón nhận tước hiệu“Chúa Cha vinh hiển”. Cách diễn tả nầy có thể là tước hiệu phụng vụ, do từ một viễn cảnh được nêu lên: viễn cảnh vinh quang mà Chúa Cha cho Chúa Con Phục Sinh được dự phần vào và, theo sau Chúa Con, mọi tín hữu.
Thánh Phao-lô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để họ càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa. “Hiểu biết Thiên Chúa” được hiểu theo Kinh Thánh là được sống với Ngài trong đức tin và đức mến, chứ không là một sự hiểu biết trừu tượng.
“Xin Ngài soi lòng mở trí cho anh em để anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh”. Hai cách diễn tả: “niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi” và “gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh”, chỉ cùng một thực tại tinh thần: dự phần vào cuộc sống vinh quang của Chúa Con Phục Sinh. Quả thật, trong Cựu Ước, cách nói: “chia sẻ gia nghiêp” gợi lên một sự kiện lịch sử: chia sẻ Đất Hứa, nghĩa là đất Ca-na-an, giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en. Trong Tân Ước:“chia sẻ gia nghiệp” giữa những người được tuyển chọn, nghĩa là “đồng thừa tự” cuộc sống vinh quang với Đức Kitô.
2. Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội:
Lời nguyện xin cho được ơn soi sáng dâng trào thành lời ngợi ca tôn vinh Đức Kitô, Đấng được đặt làm Chủ Tể vũ trụ và Thủ Lãnh Giáo Hội.
“Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến những niềm tin rất phổ biến trong thế giới Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, theo đó những sinh linh thiên giới: những quyền lực thần thiêng hay tinh tú, chia sẻ việc điều hành vũ trụ với nhau, cả trong trật tự vật lý lẫn trong trật tự tinh thần.
Ở nơi số lượng đông đảo Quyền Thần nầy, chắc chắn phải kể đến những quyền lực của Ác Thần (Tử Thần là một trong số đó) mà Đức Kitô đã chiến thắng. Thánh nhân không nêu đích danh trong đoạn văn nầy, nhưng ở gần cuối thư: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là những quyền lực thần thiêng, với những bật thống trị tối tăm nầy, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 12).
“Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô”. Đây là câu trích dẫn trực tiếp từ Thánh Vịnh 8, nêu bật lên tư tưởng mà thánh Phao-lô muốn diễn tả. Qua những từ ngữ nầy, thánh vịnh gia gợi lên sự cao cả của con người được Thiên Chúa tạo dựng: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.” (Tv 8: 6-7). Như vậy thánh nhân muốn nói rằng Đức Kitô là “Con Người” tuyệt hảo.
“Thiên Chúa đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô”.Hình ảnh nầy là chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô. Nó là đỉnh cao của việc suy gẫm dài lâu về mầu nhiệm Đức Kitô. Đầu ở đó thì toàn thân ở đó. Và đầu, không chỉ là yếu tố truyền lệnh, điều khiển, nhưng còn là một bộ phận sinh động, hiệp nhất, đảm bảo sự tăng trưởng của toàn thân. Khi nào sứ mạng của mình được hoàn thành, Giáo Hội sẽ hoàn tất ở nơi chính Đức Kitô.
TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)
Đoạn kết Tin Mừng Mát-thêu này không nêu lên biến cố Thăng Thiên hữu hình, nhưng một hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ: Đức Kitô Phục Sinh hiện ra cho mười một môn đệ, loan báo cho họ quyền tối thượng hoàn vũ của Ngài, ủy thác cho họ sứ mạng loan truyền giáo huấn của Ngài đến muôn dân muôn nước, và đảm bảo với họ Ngài sẽ ở với họ luôn mãi.
Thánh Mát-thêu không tường thuật bất kỳ cuộc xuất hiện nào khác của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài sau khi Ngài sống lại, ngoại trừ cuộc hiện ra nầy. Thánh ký tập trung lời chứng về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và những dặn dò tối hậu của Ngài vào cuộc hội ngộ duy nhất này. Như vậy biến cố này mặc lấy một chiều kích đặc biệt. Nét tiêu biểu đáng chú ý của đoạn kết này là quy tụ toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu.
1. Ở Ga-li-lê:
Hoạt cảnh diễn ra ở Ga-li-lê. Đó là nơi Đức Giê-su đã hẹn gặp các môn đệ Ngài. Ba lần Ngài đã yêu cầu họ quy tụ với nhau ở nơi nầy. Lần thứ nhất sau khi Ngài báo trước Phê-rô chối Ngài và tất cả môn đệ sẽ vấp ngã vì Ngài: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. (Mt 26: 32). Vào buổi sáng Phục Sinh, thiên sứ đã nói với các người phụ nữ đến viếng mồ: “Hãy mau về nói với các môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người” (Mt 28: 7). Đức Giê-su đích thân hiện ra với các người phụ nữ và lập lại sứ điệp nầy: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó” (Mt 28: 10). Mát thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp ở Ga-li-lê. Thánh Lu-ca định vị cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem, trong khi thánh Mát-thêu, vốn không thích thành thánh Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, dành riêng sứ điệp tối hậu của Đức Ki-tô cho Ga-li-lê.
Cuộc gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, núi nào chẳng quan trọng, vì núi chỉ là một biểu tượng. Không phải tại Tin Mừng Mát-thêu, trên một ngọn núi vang lên lời dạy các “Mối Phúc” sao?
2. Họ bái lạy Ngài:
“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”. Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh song song với những hoạt cảnh mà Mác-cô và Lu-ca mô tả, ở đó những nghi ngờ như vậy cũng được gợi lên: “Ngài tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một…khiển trách các ông không tin và cứng lòng…” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn tay chân Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24: 36-38).
Đức Giê-su tiến gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi cũng cố niềm tin của họ, Đức Giê-su ủy thác cho họ sứ điệp tối hậu của Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” Quyền tối thượng hoàn vũ nầy không phải đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo trong thị kiến về “Con Người” sao?: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cữu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).
3. Sai đi thi hành sứ mạng:
Đoạn, Đức Giê-su ủy thác cho các Tông Đồ sứ mạng vĩ đại: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Rất nhạy bén trước chiều kích hoàn vũ của ơn Cứu độ, thánh ký hoàn tất tác phẩm của mình trên viễn cảnh bao la: muôn dân muôn nước trở thành muôn đệ của Đức Ki-tô.
Đồng thời “quyền giáo huấn Giáo Hội” được xác định: “Hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ngỏ hầu Giáo Huấn nầy được trung thành gìn giữ, Đức Giê-su hứa Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. “Thầy ở cùng anh em…” Đức Giê-su không dùng thì tương lai, vì thế đây không đơn giản là lời hứa nhưng một sự khẳng định. Cuộc ra đi của Ngài có nghĩa một sự hiện diện theo một hình thức mới. “Ta ở với các ngươi” là lời khẳng định của Đức Chúa, lời khẳng định này đã nâng đỡ dân Ít-ra-en suốt dòng lịch sử thăng trầm của mình. Như vậy, thánh Mát-thêu bắt đầu Tin Mừng của mình với nguồn gốc của Đức Giê-su: Em-ma-nu-en: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và cũng kết thúc toàn bộ Tin Mừng của mình với việc Đức Giê-su hoàn thành Kinh Thánh: Ngài là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Nguồn: kinhthanhvn