Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này, đặc biệt bài đọc I và Tin Mừng, mời gọi chúng ta gẫm suy về việc Thiên Chúa kiên nhẫn đối với những người tội lỗi.
Lm Inhaxiô Hồ Thông
Kn 12: 13, 16-19
Tác giả sách Khôn Ngoan ca ngợi Thiên Chúa rất mực độ lượng điều hành muôn loài muôn vật. Khi Thiên Chúa trì hoãn trừng phạt, Ngài muốn cho tội nhân một kỳ hạn để mà hoán cải.
Mt 13: 24-43
Trong Tin Mừng Mát-thêu, cả hai dụ ngôn hạt giống và cỏ lùng, trong đó chủ ruộng yêu cầu cứ để cả hai mọc lên cho đến mùa thu hoạch, đều đưa ra theo cùng viễn cảnh như trên.
Rm 8: 26-27
Đoạn trích thư thánh Phao-lô gởi các tín hữu Rô-ma theo cùng một chủ đề: Thiên Chúa thấy tận thâm tâm con người. Thánh Thần tác động và can thiệp để giúp người tín hữu thực thi ý muốn của Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Kn 12: 13, 16-19)
Sách Khôn Ngoan là sách muộn thời nhất toàn bộ Cựu Ước; sách được soạn thảo ở thành phố A-lệ xan-ri-a, bên Ai-cập, vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên.
Vào thời đó, thành phố A-lê-xan-ri-a được xem là cái nôi rực rỡ nhất của nền văn hóa Hy-lạp. Do số lượng người Do-thái định cư ở đây, thành phố này cũng là thành phố quan trọng bậc nhất của kiều bào Do thái. Tác giả sách Khôn Ngoan, vô danh, viết bằng Hy ngữ, gởi cho đồng bào của mình, những người này không còn biết tiếng Híp-ri. Tác giả lo lắng khi thấy sức quyến rũ của nền văn hóa Hy-lạp tác động trên đồng bào của mình, vì thế ông muốn chứng minh cho họ thấy rằng sự khôn ngoan đến từ Thiên Chúa trổi vượt trên mọi khôn ngoan phàm nhân.
Đoạn trích này là một lời nguyện dâng lên Thiên Chúa, ca ngợi sự công minh chính trực mà Ngài điều hành vạn vật.
1. Thiên Chúa rất mực độ lượng:
Hiền nhân này khẳng định, sự công minh chính trực này xuất phát từ sự toàn năng của Ngài, không thế lực bên ngoài nào khiến Thiên Chúa phải trì hoản. Ngài chậm thi hành án phạt bởi vì Ngài là chủ tể của thời gian. Trước đó, tác giả đã gợi lên Thiên Chúa rất mực từ bi nhân hậu đối với dân Ca-na-an. Tuy là những kẻ thù của dân Ngài, Ngài đã đối xử rất mực độ lượng ngỏ hầu chúng biết nắm lấy cơ hội mà hoán cải.
2. Con người yếu đuối thường sử dụng bạo lực:
Trái lại, con người không đối xử với nhau như thế. Vì yếu đuối, con người dùng bạo lực để củng cố quyền hành của mình. Nó ra tay tiêu diệt những ai chống đối mình. Phải chăng tác giả nghĩ đến một bạo chúa nào đó hay nói một cách chung chung? Một trong những phương thức mà ông ưa thích là sự tương phản: tác giả muốn nêu bật thái độ khác biệt giữa Thiên Chúa và con người.
3. Đức điều độ của Thiên Chúa:
Dù đoạn văn này được gợi hứng từ Kinh Thánh, người ta có thể tự hỏi phải chăng tư tưởng của tác giả không chịu ảnh hưởng một chút nào quan niệm về thần linh của Hy-lạp. “Đức điều độ là ưu phẩm của các thần linh và giới hạn duy nhất mà họ tự ý đòi buộc cho quyền năng của họ” (Eschyle, Les Eumnides, v. 529-530). “Vì Chúa làm bá chủ vạn vật, nên Chúa nương tay với muôn loài…Chúa làm chủ được sức mạnh, nên Chúa xét xử khoan hồng, Chúa cai quản chúng con với lượng cả bao dung”.
Chúng ta cũng nên ghi nhận chiều kích hoàn vũ của những diễn ngữ: “Thiên Chúa làm bá chủ vạn vật” (lập lại đến ba lần), “Chúa cai quản chúng con”, nghĩa là, Đức Chúa không chỉ Thiên Chúa của dân Do thái, nhưng còn của mọi dân nước. Thiên Chúa Ít-ra-en cũng phải là Thiên Chúa của muôn dân, Lịch Sử Cứu Độ làm chứng điều đó (tác gải dựa rất nhiều trên những chứng từ của Lịch Sử Cứu Độ). Đó là một quan niệm thần học cốt yếu, vả lại nó hòa hợp rất đặc biệt với những trào lưu tư tưởng thời đại: vào lúc đó, chiều kích hoàn vũ là nốt nhạc chủ đạo của các hệ thống triết học.
4. Lòng từ bi nhân ái:
Lời nguyện tiếp tục với một lời ngợi khen Đức Chúa về lòng từ bi nhân ái của Ngài: “Làm như thế Chúa đã dạy dân rằng: người công chính phải có lòng nhân ái”.
Từ ngữ “lòng nhân ái”, nghĩa là yêu thương người, rất thịnh hành. Từ ngữ này bắt nguồn từ ngôn ngữ Hy-lạp cổ điển, vào thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Vào thời kỳ Hy-lạp hóa, từ ngữ này đã có một ảnh hưởng lớn lao. Tác giả sách Khôn Ngoan nhiều lần áp dụng đức tính này cho Thiên Chúa và làm cho đức tính này trở thành mẫu gương quan trọng: ai muốn là công chính phải có lòng nhân ái, không chỉ đối với đồng bào mình, như Luật đã truyền dạy, nhưng đối với hết mọi người. Lòng nhân ái đối với mọi người này chuẩn bị Tin Mừng.
Ước muốn của Ngài là được thấy tội nhân hoán cải đây cũng là nét đặc trưng của Thiên Chúa Kinh Thánh. Đó là lý do cốt yếu tại sao Thiên Chúa nhẫn nại với tội nhân. Nếu Thiên Chúa trì hoãn án phạt, chính vì Ngài cho kẻ tội lỗi kỳ hạn để mà ăn năn sám hối, đó là lòng nhân ái của Ngài. Chúng ta gần với dụ ngôn cỏ lùng, đừng nhổ ngay, nhưng cứ để cỏ lùng mọc lên cùng với hạt giống tốt.
BÀI ĐỌC II (Rm 8: 26-27)
Chúng ta tiếp tục đọc thư của thánh Phao-lô gởi các tín hữu Rô-ma. Trong chương 8 này, thánh Phao-lô vạch ra đời sống Ki-tô hữu theo Thần Khí. Đoạn trích này mang dáng dấp lời cầu nguyện. Thánh Phao-lô đã là một nhà cầu nguyện vĩ đại; ngài cầu nguyện luôn, trong mọi lúc, như ngài căn dặn nhiều lần.
Trong Cựu Ước, Thần Khí không là một ngôi vị, nhưng một năng lực. Trong Tân Ước, Thần Khí vẫn là một năng lực, nhưng Mặc Khải đã được xác định Thần Khí là một trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Chiều kích năng động của Thần Khí hoàn toàn nội tại trong chúng ta.
Vốn thích những phản đề theo cách sê-mít, thánh Phao-lô nhấn mạnh sự yếu hèn của chúng ta khi đối diện với năng lực thần linh này. Không còn là sự yếu hèn của chúng ta đối diện với thế gian tội lỗi như trong những chương trước, nhưng cốt là sự yếu hèn của chúng ta đối diện với thế giới thần linh mà chúng ta không biết cầu nguyện như thế nào cho phải.
Vì thế, Thánh Thần ở trong chúng ta để trợ giúp chúng ta: Ngài trợ giúp chúng ta trong hành động như thế nào, Ngài cũng giúp đỡ chúng ta trong chiêm niệm như vậy. Ngài “cầu thay nguyện giúp cho chúng ta bằng những tiếng rên siết khôn tả”, nghĩa là bằng những ngôn từ mà ngôn ngữ phàm nhân không thể nào diễn tả được. Thánh Phao-lô không nhắm đến ơn nói tiếng lạ hay tiếng thì thầm đặc sủng nào đó: thánh nhân nhắc cho chúng ta nhớ rằng lối vào Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Chỉ có Thần Khí mới có thể dẫn đưa chúng ta vào mầu nhiệm này trong những quan điểm của Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Mt 13: 24-43)
Chúng ta tiếp tục đọc chương 13 Tin Mừng Mát-thêu: ba dụ ngôn về cỏ lùng, hạt giống và men trong bột gợi lên sự phát triển của Nước Trời.
1. Dụ ngôn cỏ lùng:
Dụ ngôn cỏ lùng là dụ ngôn làm các môn đệ rối trí nhất; đây là dụ ngôn duy nhất mà họ hỏi Đức Giê-su. Quả thật, dụ ngôn này đặt ra một vấn đề nghiêm trọng: cuộc sống chung của Cái Thiện và Cái Ác, ở giữa lòng công trình của Thiên Chúa.
Các ngôn sứ định vị kỷ nguyên Mê-si-a và kỷ nguyên cánh chung vào cùng một viễn cảnh, cả hai được trộn lẫn dưới những từ ngữ “Ngày của Chúa” hay “Ngày Chung Thẩm”. Thánh Gioan Tẩy Giả được nuôi dưỡng bởi niềm hy vọng này: Đấng Mê-si-a sẽ là vị Thẩm Phán, Ngài sẽ chọn lựa sàn lọc: “Tay cầm cái nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 12; Lc 9: 52-55). Thế mà Đức Giê-su đã không đến để thu hoạch, Ngài đến để gieo giống. Chính bằng hình ảnh người gieo giống mà Ngài diễn tả sứ mạng của mình.
Dụ ngôn cỏ lùng cho hiểu rằng ông chủ ruộng có một kẻ thù bí nhiệm, hắn hành động lén lút ban đêm như một người có quyền năng giới hạn. Ông chủ không hề xao động; ông bình thản chờ đợi thời vụ; ông biết rằng ông sẽ có lời phán quyết sau cùng. Cỏ lùng sẽ không ngăn cản được vụ mùa bội thu: công trình của Thiên Chúa sẽ không bao giờ thất bại cả.
Nếu cây lúa và cỏ lùng trộn lẫn vào nhau đến mức không thể phân biệt được, đó không phải là dấu chỉ cho thấy rằng cỏ lùng ở trong lòng quân vô đạo sao? Thật ra, khó mà phân biệt rạch ròi giữa “người tốt” và “kẻ xấu”. Không ai hoàn toàn xấu, cũng như không ai hoàn toàn tốt về mọi mặt cả.
Thiên Chúa chờ đợi; Ngài chờ đợi mỗi người phô bày hết khả năng của mình; có thể có những người thợ của giờ sau cùng…Thời gian của Thiên Chúa chưa chấm dứt và những kỳ hạn của Ngài là những trì hoãn vì lòng xót thương.
2. Dụ ngôn hạt cải:
“Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình”. Hạt cải là một hạt giống nhỏ bé nhất trong các loại giống. Xét theo lý, từ hạt giống nhỏ bé ấy sinh ra một cây nhỏ theo một kích thước chừng mực nào đó. Ấy vậy, Chúa Giê-su miêu tả một sự phát triển thần kỳ: cây nhỏ trở thành một cây lớn đến nỗi chim trời đến làm tổ trên cành được. Sự tăng trưởng Nước Trời rồi sẽ cũng như vậy đó.
Lối phóng dụ của Đức Giê-su chứa đựng một ám chỉ Kinh Thánh rõ ràng. Các ngôn sứ đã biểu tượng quyền năng của các đế quốc ngoại giáo (Ai-cập, Ba-by-lon) bằng hình ảnh về một cây hương bá, thân cao lớn hơn mọi cây trong cánh đồng, đâm chồi nẩy lộc, cành lá vươn rộng. Trên cành, mọi giống chim trời đến làm tổ, dưới bóng mát của nó, mọi dã thú sinh sôi nẩy nở và vô số dân tộc đến lập cư (Ed 31: 1-13).
Ê-dê-ki-en gợi ra tương lai của Giê-ru-sa-lem theo cùng một cách như vậy. Đức Chúa ngắt một chồi non trên ngọn cây hương bá đem về trồng trên núi Ít-ra-en. Chồi non này trở thành một cây hương bá tuyệt diệu, nơi ẩn náu của đủ loài chim muôn (Ed 17). Bản văn Ê-dê-ki-en này là một trong những bản văn thiết lập niềm hy vọng về quyền thống trị của dân Chúa chọn.
Đức Giê-su cũng rất ý tứ khi lấy lại những hình ảnh tự hào tự phụ này. Một cây cải không thể đánh thức trong tâm trí khán thính giả của Ngài bất kỳ hậu ý nào về quyền lực trần thế. Một lần nữa, Đức Giê-su bày tỏ chủ nghĩa phi chính trị của sứ điệp Ngài. Vóc dáng biểu tượng của cây cải là một sự so sánh thuộc trật tự tinh thần: vóc dáng này nhấn mạnh sự tương phản giữa khởi đầu bé nhỏ của Nước Trời và sự phát triển phi thường của nó.
3. Dụ ngôn men trong bột:
Dụ ngôn men trong bột đưa ra một bài học tương tự với dụ ngôn hạt cải trên. Không gì nhỏ bé và ẩn kín hơn nắm men, tuy nhiên nó đã làm dậy lên cả đống bột. Công việc âm thầm, tương tự như sự tăng trưởng của một cây, nhưng thành quả của nó thì đáng kinh ngạc.
Nước Trời cũng như vậy. Bị vùi sâu trong đống bột nhân loại, Nước Trời sẽ âm thầm biến đổi đống bột nhân loại này dần dần cho đến ngày tận thế. Đức Giê-su không là một nhà cách mạng: Ngài không tìm kiếm một thành quả bất ngờ và ngoạn mục; vương quốc của Ngài khởi đi từ những bước khởi đầu khiêm tốn và rồi âm thầm phát triển mà không ai hay biết, nhưng một cách sâu xa trong nhân loại được đổi mới.
Ở nơi đoạn văn này, chúng ta ghi nhận đây là trường hợp duy nhất trong các sách Tin Mừng ở đó men được nhắm đến một cách tích cực. Ở những nơi khác, kể cả các thư của thánh Phao-lô, men là hình ảnh về việc dậy men, tức là sự suy đồi hư hỏng, thế nên men bị loại trừ khỏi những ngày lễ Vượt Qua.
4. Đức Giê-su giảng dạy đám đông bằng dụ ngôn:
Như trước đây, Chúa Giê-su giảng dạy đám đông chỉ bằng dụ ngôn: “Tất cả các điều ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn”. Thánh Mát-thêu viện dẫn sự kiện này bằng cách trích dẫn Tv 78. Thánh vịnh gia này loan báo rằng ông sẽ giải mã những điều bí nhiệm của thời quá khứ qua lịch sử Ít-ra-en. Cũng vậy, tác giả Tin Mừng muốn nói rằng Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn để vén mở những điều bí ẩn của Nước Trời.
5. Đức Giê-su giải thích cho các môn đệ:
Nhưng lối nói dụ ngôn này các môn đệ của Ngài xem ra không nắm bắt được, vì thế khi trở về nhà, họ xin Chúa Giê-su giải thích cho họ. Câu hỏi của họ nhắm đến dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng, dụ ngôn này làm họ bối rối: “Xin Thầy giải nghĩa dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con”.
Đức Giê-su giúp cho họ hiểu rằng tất cả lịch sử nhân loại sẽ diễn tiến cho đến tận thế, theo đó nhân loại sẽ phải chấp nhận sống chung với những “con cái Ác Thần”, những kẻ tìm cách bóp nghẹt vụ mùa. Sự chọn lọc phân định người lành kẻ ác sẽ được thực hiện vào mùa gặt.
“Thợ gặt là các thiên thần”. Việc các thiên thần được gán cho vai trò thợ gặt vào ngày tận thế đến từ các ngôn sứ, nhưng nhất là các sách khải huyền. Sách Khải Huyền của thánh Gioan lấy lại đề tài này (Kh 15: 17-19).
6. Nước của Chúa Cha:
Điều gợi lên sau cùng rất đáng chú ý. Vào ngày tận thế, “mọi kẻ làm gương mù gương xấu và mọi kẻ làm điều gian ác” sẽ bị quăng vào lò lửa, trong khi những người công chính “sẽ chói lọi như mặt trời, trong Nước của Cha họ”.
Triều đại của Chúa Con là thời kỳ cứu độ nhân loại. Vào ngày tận thế, Chúa Giê-su trao vương quyền lại cho Cha Ngài. Trong thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô phác họa cùng một viễn cảnh hùng vĩ như vậy: “Sau đó mọi sự điều hoàn tất, khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần, rồi trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha. Thật vậy, Đức Giê-su phải nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Ngài” (1Cr 15: 24-25).
Nguồn: kinhthanhvn