Home / Suy Niệm Lời Chúa / SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN- LỄ KITÔ VUA, NĂM B, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN- LỄ KITÔ VUA, NĂM B, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CN 34BB

LỄ KITÔ VUA

Ga 18,33-37(Ga 18,33-37)

I.TÀI LỆU GỢI Ý            

  1. Ngữ cảnh

Trong đêm, Đức Giêsu đã bị bắt (Ga 18,12) và bị điệu đến ra trước các ông Khanan (Ga 18,13) và Caipha (Ga 18,24). Đến sáng, người Do Thái lại điệu Đức Giêsu đến dinh tổng trấn Philatô (Ga 18,18). Bản văn đọc hôm nay cho thấy Người đang ở tại tòa án Rôma; Người đứng trước quan Tổng trấn, là nhân vật có quyền lực tối cao, nắm quyền sinh sát trong tay. Không phải là trong mộtcuộc đối thoại thong thả, nhưng là trong một phiên tòa có thể định đoạt về mạng sống, mà những gì Đức Giêsu đã làm được công bố. Người đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người và tuyên bố cho hiểu “Vương Quốc” của Người thuộc về loại nào.

Tùy theo sự di chuyển của Philatô ra với dân chúng hay vào với Đức Giêsu, cuộc xử Đức Giêsu trước tòa Philatô được bố trí thành 7 đoạn theo cấu trúc chuyển hoán và đồng tâm như sau (Các học giả cũng có đề nghị mộtcấu trúc song song, nhưng không thuyết phục):

– Đoạn 1: Ga 18,28-32: bên ngoài;

   – Đoạn 2: Ga 18,33-38a: bên trong;

      – Đoạn 3: Ga 18,38b-40: bên ngoài;

         – Đoạn 4: Ga 19,1-3: bên trong – Đỉnh cao: “Kính chào Vua dân Do Thái” (19,3);

      – Đoạn 5: Ga 19,4-8: bên ngoài;

   – Đoạn 6: Ga 19,9-11: bên trong;

– Đoạn 7: Ga 19,12-16a: bên ngoài.

Trong toàn khối này, bản văn đọc hôm nay thuộc đoạn 2, là đoạn phong phú nhất với những tư tưởng thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền của Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Chất liệu của bản văn được bố trí xoay quanh câu hỏi của Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Tuy nhiên, ta có thể chia bản văn ra thành ba đơn vị dựa theo ba lần đối đáp giữa Philatô và Đức Giêsu:

      a/. Đặt vấn đề về Vua (Ga 18,33-34);

      b/. Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (Ga 18,35-36);

      c/. Đặt vấn đề về Vua (Ga 18,37).

3.Ý nghĩa của bản văn

Chúng ta ở bên trong tòa án, Philatô trở vào trong dinh, và cho gọi Đức Giêsu đến. Đây có phải là Đồn Antônia không, chúng ta không rõ. Lúc này là bình minh. Chi tiết này có tính thông tin, nhưng cũng có tầm mức biểu tượng: đây là ngày Đức Giêsu chịu chết, nhưng cũng là ngày bắt đầu vinh quang; đây là ngày “quyết liệt” của Đức Giêsu, ngày sắp diễn tiến, ghi dấu ấn trên toàn thể lịch sử của nhân loại. Điều cần ghi nhận là có hai không gian:

– Người Do Thái không vào dinh Philatô vì sợ bị nhiễm uế, và như thế không được cử hành lễ Vượt Qua;

– Đức Giêsu đang ở trong dinh Philatô, tức ở trên phần đất bị nhiễm uế: Người đã bị dân Do Thái (dân không nhiễm uế) loại trừ.

Philatô và Đức Giêsu đối diện nhau, ta không thấy có nhân vật nào khác ở đây. Tương ứng với đoạn văn này là đoạn Ga 19,8-12, là nơi Philatô và Đức Giêsu cũng ở một mình với nhau.

3.1.Đặt vấn đề về vua (33-34)

Từ câu 33 trở đi, các chi tiết được cung cấp dồi dào. Tác giả nêu bật chuyển động của Philatô. Ông đi vào và hỏi trực tiếp Đức Giêsu là Người có phải là vua chăng. Ông dùng công thức “vua dân Do Thái” (ho basileus tôn Ioudaiôn). Rất có thể ông dùng lại lời tố cáo của người Do Thái; tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy lời tố cáo này minh nhiên ở đâu cả. Nhưng Đức Giêsu hỏi ngược lại, Người hỏi ông về thái độ của ông: Philatô phải ý thức rằng ông nói bằng sự hiểu biết riêng hay ông nhắc lại những gì kẻ khác bảo, vì đây là một lời buộc tội rất nặng. Kẻ bị cáo nại tới lương tâm của quan tòa và nhắc ông nhớ tới bổn phận phải kiểm chứng các hoàn cảnh thực tế cho chính xác và với trách nhiệm. Trước tiên, Philatô giữ khoảng cách bằng cách nêu ra nhận định là chuyện này chẳng dính dáng gì đến ông và ông đảm bảo rằng mọi chuyện này là do người Do Thái.

3.2.Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (35-36)

Rồi ông hỏi: “Ông đã làm gì?” (câu 35b). Bằng câu hỏi này, ông cho thấy rằng ông ý thức về bổn phận của ông, ông không muốn chịu trách nhiệm về các nhận định của kẻ khác hoặc về các phán đoán tổng quát, nhưng ông muốn xác định thật rõ những gì bị cáo đã làm, trước khi tuyên án.

Chúa Giêsu trả lời, nhưng tập trung vào câu hỏi: “ông có phải là vua không?” (câu 33). Tác giả cho thấy Đức Giêsu tỏ ra là Người làm chủ tình hình qua cách Người dẫn dắt cuộc thẩm vấn của Philatô: Philatô hỏi câu thứ nhất, Đức Giêsu hỏi về tư cách của tổng trấn; ông hỏi câu thứ hai, Đức Giêsu trả lời câu thứ nhất,… qua đó, Người không nêu ra các sự kiện riêng lẻ, nhưng Người nhắm đến tính cách toàn thể của công trình Người, bằng cách trước tiên nói cho biết điều gì còn thiếu nơi công trình này. Trong khi vẫn bị trói (Ga 18,24), Người tuyên bố ba lần: “nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36). Đức Giêsu muốn nói rằng Nước của Người không phải là kiểu trần gian, không có dính dáng gì với những chuyện lãnh địa hoặc quyền chúa tể, cũng như không liên hệ gì đến việc sử dụng các dụng cụ quyền lực.

3.3.Đặt vấn đề về vua (37)

Từ đó, Philatô đã để cho mình bị thuyết phục, ông hỏi: “vậy ông là vua sao?” (câu 37), chứ không còn hỏi: “Vậy ông là vua dân Do Thái sao?”. Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn nhận Người là Vua, nhưng không theo cách của các vua thế gian này. Người đã nói: “nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu…” (câu 36). Có một chuyện Philatô không biết, nhưng chúng ta đã được thông tin, đó là Phêrô đã dùng gươm để chiến đấu hầu bảo vệ Đức Giêsu, nhưng Người đã từ khước kiểu dùng vũ lực ấy. Chỉ có điều đến bây giờ, khi ở trước mặt Philatô, lý do của sự từ khước này mới được Đức Giêsu công bố: Nước của Người không thuộc về thế gian này. Người cũng cho biết Nước của Người không thuộc về thế gian này qua lời nhắc đến việc bị nộp cho người Do Thái. Nếu Người là vua theo cách các vua trần gian này, các thuộc hạ của Người đã chiến đấu cho Người: “không để tôi bị nộp cho người Do Thái”. Vậy, đứng trước Philatô, khi nghe quan hỏi: “vậy ông là vua sao?”, Đức Giêsu vẫn đang bị trói, ở trong tư thế yếu đuối cùng cực, đã cho thấy Người là ai: Người là Vua. Philatô nhận biết rằng Đức Giêsu không phải là một vị vua theo nghĩa người ta đã tố cáo. Nhưng từ những lời Đức Giêsu nói, ông cũng hiểu ra rằng Người vẫn cho rằng Người là Vua: thế thì ông muốn biết Nước của Người là kiểu nào.

Đức Giêsu xác nhận lời khẳng định đã nêu ra và bây giờ Người giải thích bản chất của Nước Người theo chiều hướng tích cực, và như thế là mời Philatô đón nhận khẳng định của Người. Người thật sự là Vua. Bằng lời nói sau đây, Người xác định lập trường của Người và nhiệm vụ làm Vua của Người: “tôi đã sinh ra và đã đến thế gian chính là để làm chứng cho sự thật” (câu 37). Ý nghĩa tổng hợp của việc Người sinh ra và đến thế gian nằm trong việc làm chứng cho sự thật: chỉ vì điều này mà Người đến ở trong thế gian và chỉ điều này mới là cốt lõi của công việc làm Vua của Người. Chỉ ai biết rõ sự việc và có kinh nghiệm thì mới làm chứng được. Đức Giêsu không muốn nói đến sự thật về một sự kiện nào, nhưng là sự thật về Thiên Chúa. Người có quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa, Người biết Thiên Chúa trong sự hiệp thông hết sức thâm sâu. Người được Thiên Chúa sai phái và từ Thiên Chúa mà đến trong thế gian. Chỉ có Người mới làm chứng được về vị Thiên Chúa mà Người luôn hiệp thông với, vì Người sống trong sự hợp nhất hoàn hảo với Thiên Chúa như là Con với Cha.

Theo truyền thống Kinh Thánh, vua là mục tử của dân. Nhiệm vụ của vua là làm cho dân được sống dồi dào. Đức Giêsu đã mô tả công việc của Người là mục tử tốt: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Cùng với lời chứng về Thiên Chúa, Đức Giêsu giúp người ta đến được với sự sống toàn vẹn, ngoài mọi khả năng của loài người.

Và như để làm chứng cho tầm mức đích thật của lời khẳng định về tư cách vương giả của Người, và cho thấy rằng quyền lực của Người không phải là như quyền lực chính trị của thế gian này, Đức Giêsu tuyên bố rằng, đứng trước lời chứng của Người, trong liên hệ với sự thật, sẽ phát sinh một đường ranh phân đôi loài người: “phàm ai phát xuất từ sự thật thì lắng nghe tiếng tôi” (câu 37), và hiểu ngầm là ai không phát xuất từ sự thật, thì không nghe tiếng Người.

Như vậy, Đức Giêsu đã tóm tắt cho Philatô về ý nghĩa của sứ mạng của Người, về lý do khiến Người sinh ra đời và khiến Người đến trong thế gian. Đây là một câu tóm rất ngắn, nhưng khá đầy đủ, đầy gợi ý, đặc biệt với lời nhắc đến cuộc chào đời. Lời nhắc này quan trọng vì cho phép ta hiểu được Đức Giêsu là ai. Quả thế, khi gặp Người, ta không thể không tự hỏi Người từ đâu đến và xuất xứ của Người là thế nào.

Câu trả lời của Đức Giêsu cho Philatô cũng rất rõ. Ta không thể biết Người nếu không thay đổi thái độ và lấy lập trường. Do đó, đến cuối lời tuyên bố, Đức Giêsu tìm cách lôi kéo kẻ đang nghe Người vào: “ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (câu 37). Philatô sẽ phản ứng như thế nào?

Philatô lại khởi đi từ phần cuối của lời tuyên bố của Đức Giêsu và nêu một câu hỏi nhằm được giải thích: “Sự thật là gì?” (câu 38). Với câu hỏi này, Philatô tránh trả lời và ông phản ứng như một nhà chính trị. Bằng câu hỏi này, hoặc nhằm diễn tả một hoài nghi (ai có thể biết được sự thật chứ?), hoặc một lời chế nhạo (sự thật thì quan trọng gì?), ông đã cắt đứt cuộc đối thoại.

Dù sao, các trao đổi giữa Philatô và Đức Giêsu cho thấy là sứ điệp của Người lúc đầu đã được ưu tiên gửi đến cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ khước, nay vượt biên giới tôn giáo để đến với Dân ngoại, có đại diện là quan Philatô.

3.4.Kết luận

Mặc dù đây là khoảnh khắc lạ lùng, Philatô cũng nhận được một lời loan báo Đức Giêsu gửi cho ông. Rất có thể cuộc đối thoại sẽ đưa Philatô đến chỗ nhận biết Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi là sự thật” (Ga 14,6), nhưng Philatô chưa đủ chín để nhận ra điều này. Dù sao, đề tài “Sự thật” là một đề tài rất quan trọng trong Tin Mừng thứ IV. Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, một phạm trù, hoặc chỉ là một ý tưởng, nhưng là một con người. Sự thật là con người mà Philatô đang thấy trước mặt. Và sự thật là điều mà Philatô không sao hiểu nổi. Để có thể đón nhận lời chứng của Đức Giêsu và hoạt động của Người trong tư cách là vua, người ta phải mở lòng ra với Thiên Chúa. Philatô đã không thể hiểu được ý nghĩa đầy đủ của lời Đức Giêsu đáp, và ông cũng không muốn hiểu. Đối với ông, làm sáng tỏ các tương quan sức mạnh là đủ khi thi hành nhiệm vụ quan tòa, Philatô đã chấp nhận rằng Đức Giêsu nói với ông về nhiệm vụ của ông. Nhưng ông đã khép mình lại trước lời chứng của Đức Giêsu về Thiên Chúa.

4.Gợi ý suy niệm

1.Có những bức tranh diễn tả Đức Kitô Vua: một người với gương mặt nghiêm khắc, thậm chí giận dữ, ngồi trên một cái ngai, bên cạnh có các thiên thần, cũng có gương mặt lạnh lùng và căng thẳng sẵn sàng đáp ứng mọi ước muốn của Người, y như các vệ sĩ! Các nghệ sĩ đã cho thấy Đức Giêsu giống như một vị vua trần thế, mà mọi người phải kính trọng, sợ hãi, vâng phục, luôn luôn phải cong lưng cúi đầu. Thật đáng tiếc, nếu lầm lẫn vương quyền của Đấng Mêsia với vương quyền của thế gian này. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một hình ảnh khác hẳn.

2.Vương quyền của Đức Giêsu không thể mô tả được bằng các từ ngữ nói về quyền vương đế nhân loại. Vương quyền của Người được xác định bằng cách đặt liên hệ với thế giới khác, thế giới chúng ta mà Đức Giêsu đến sống để làm chứng, và như thế Người đóng vai trò trung gian và đưa thế giới của Thiên Chúa vào ngay trong lòng một thế giới nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Quyền làm vua của Người, Đức Giêsu hành xử khi lôi kéo loài người khỏi sự chết để đưa họ vào trong nhà Cha. Người hành xử vương quyền khi Người hy sinh mạng sống.

3.Khi làm chứng về sự thật, Đức Giêsu cũng làm chứng về chính mình, vì Người là sự thật, Người đến mang sự thật cho thế gian. Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người đã làm chứng về sự thật, và đây chính là nguyên nhân đưa Người tới chỗ chết: như vậy, chính vào thời điểm quyết liệt này mà Người làm chứng rõ nhất về sự thật. Đây là chân lý về lòng trung thành và từ bi thương xót của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại.

4.Chúng ta không thể quên rằng Đức Vua chúng ta là một vị Vua chỉ có vòng gai trên đầu. Chúng ta không thể quên rằng, chúng ta là thần dân của một Vương Quốc “không thuộc về thế gian này”, không mang đặc tính của “đất”. Do đó, làm chứng về Tin Mừng, về Đức Kitô, cũng chính là làm chứng rằng Đức Kitô, Vua chúng ta, là một vị Vua đã bị kết án tử hình, bị đánh đòn, phải đội vòng gai, và sẽ bị đâm thủng cạnh sườn, để giới thiệu về tình yêu hết sức lạ lùng của Thiên Chúa. Quả thật, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô bờ bến và muốn đón nhận chúng ta vào trong sự hiệp thông, trong đó Ngài đang sống với Con. Đức Giêsu muốn đưa chúng ta đến sống với Chúa Cha bằng sự sống mà chính Người đang sống, để chúng ta có được sự an toàn, niềm vui thâm sâu, trong tương lai vững bền. Đây là nội dung của lời chứng chúng ta phải công bố trong lòng thế giới.[1]

 

II.CHIA SẺ TIN MỪNG

Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua

Một triết gia thời xưa đã nói: “Homo homini lupus”: Người với người như lang với sói. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính hay tấn công, cắn xé, thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn muốn tấn công nhau, cấu xé và chém giết  nhau. Lịch sử loài người là một chuỗi dài những cuộc chiến tranh liên tiếp. Gần đây nhất là hai cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ ba với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700. 000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.

Từ những sự kiện thực tế đó, một câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau như vậy?

Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người: tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp.[2] Cho nên trong bối cảnh giữa hai cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11/12/1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua.

Chúa kitô là vua, nhưng là một vị vua hoàn toàn khác với các vị vua trần thế. Nhìn vào lịch sử nhân loại sẽ thấy vua Trụ và vua Kiệt là những hôn quân, một Tần Thủy Hoàng bạo ngược đến độ đốt sách, giết các nhà trí thức, học trò giỏi trên 2000 mạng người để dễ bề cai trị; một Néron hung tàn vì thỏa mãn lòng kiêu căng  đã đốt sạch đế đô Rôma để có cớ xây lại huy hoàng hơn; một Napoléon tham vọng đã đẩy hàng triệu người vào cái chết và gần đây một Hitler hiếu chiến hiếu sát đã lôi kéo cả thế giới vào một cơn lốc chém giết, tàn phá nhau kinh khủng. Và biết bao vua chúa quan quyền khác đã cai trị thần dân bằng cách bắt họ lụy phục mình hơn là phục vụ họ. Vương quyền dầu lớn lao, tuyệt đối,  nhưng Đức Giêsu trước sau chỉ có một đường duy nhất là yêu thương và phục vụ mà thôi. Chính vì tình yêu cao vời như thế, Đức Kitô đã chấp nhận  chết cho thần dân của mình. Ngài hiến thân hy sinh cho cả Hội Thánh. Như vậy, qua cuộc hiến tế của Ngài, chúng ta nhận ra, vua Kitô không chỉ là Vua hiền lành, nhân từ, Ngài còn là vị vua hạ mình đến tận cùng. Đến nỗi khi nhìn ngắm  sự hạ mình của Ngài trong cuộc hiến tế thương đau, ta chỉ còn biết lặng người đi, chiêm ngắm, thờ lạy, cảm tạ, chúc tụng, nguyện một lòng mang ơn Ngài và trung thành theo Ngài đến trọn cuộc đời.

            Cách đây không lâu, những người thợ lặn đã phát hiện ra một con tầu  bị chìm cách đây 400 năm ngoài biển khơi ở vùng phía bắc Ireland. Một trong những kho tàng họ đã tìm thấy trên tầu là một chiếc nhẫn cưới của một người đàn ông. Khi họ đánh bóng, họ thấy trên mặt chiếc nhẫn khắc hình một bàn tay  đang nắm giữ một trái tim. Phía dưới có khắc hàng chữ như sau: “em không còn gì hơn để cho anh” (I have nothing more to give you). Trong tất cả những kho tàng đã tìm thấy trên con tầu, không có sự gì làm cảm động những người thợ lặn cho bằng chiếc nhẫn và những lời cao đẹp của tình yêu đó.

–“Ta không còn gì để cho con” – có thể được đặt trên thập giá của Đức Giêsu. Vì từ trên thập giá đó, Ngài đã cho chúng ta tất cả những gì Ngài có. Ngài cho chúng ta tình yêu và mạng sống. Ngài cho chúng ta tất cả những gì một người có thể trao ban cho người mình yêu: “không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu”(Ga Ga 15,13).[3]

            Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo Hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa: đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc. Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy. Amen

 Lm Giuse Đỗ văn Thuỵ

  

[1]  FX Phan Long OFM

 https://catechesis.net/ga-1833b-37-duc-vua-giesu/

[2] Hồ Bạc Xái

[3] Đinh lập Liễm

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …