(Lc 17,11-19)
1. Bài Đọc:
“Trên đường lên Giêrusalem (1), Chúa Giêsu đi qua biên giới hai miền Samaria và Galilê. Lúc Người vào một làng kia thì có mười người phong hủi đón gặp Người. Họ dừng lại đằng xa (2) và kêu lớn tiếng: ‘Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!’. Thấy vậy, Chúa Giêsu bảo họ: ‘Hãy đi trình diện với các tư tế’. Đang khi đi thì họ đã được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa.
“Anh ta sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaria (3). Chúa Giêsu mới nói: ‘Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?’. Rồi Người nói với anh ta: ‘Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.
2. Chú Thích:
(1) Trên đường lên Giêrusalem: Sau khi Chúa Giêsu giảng dạy về việc phục vụ với tinh thần khiêm tốn. Chúa Giêsu và các môn đệ lên Giêrusalem.
(2) Dừng lại đằng xa: Theo luật thời đó, những người bị bệnh phong hủi không được gần gũi và tiếp xúc với cộng đồng.
(3) Samaria: Miền Trung Palestine, thành lập từ đời vua Amri, đến sau vua Hiếtcan tái thiết, chừng hơn 100 năm trước Chúa Giêsu. Tuy dân tộc vẫn là con cháu Israel, nhưng lai giống người ngoại giáo. Vẫn tin độc thần, nhưng chỉ tin bộ Ngũ Kinh của người Do Thái, không tin các sách khác, và có đền thờ riêng ở Caridin, không lên đền thờ Giêrusalem, nên bị người Do Thái ở Giuđê kể như người có tội và ngoại giáo, còn gọi là ngoại bang. Hai bên thù oán khinh bỉ nhau. Có nhà đạo sĩ Do Thái đã bảo: 5 ‘Nước người Samaria còn dơ bẩn hơn huyết lợn!’. Người Samaria phá phách giết hại người Do Thái, có lần họ lấy xương người vứt vào trong đền thánh.
3. Suy Niệm:
(1) Người phong hủi là một người bị bệnh tật rất đau khổ, một loại bệnh nan y không có thuốc chữa, đã từng nghe tiếng Chúa Giêsu hay làm phép lạ cứu giúp. Trong dịp này, có người chưa tin tôn giáo Do Thái, dường như Chúa Giêsu muốn nhắc nhủ với mọi người, có những lúc cần phải đến với người đại diện Thiên Chúa để được ơn của Thiên Chúa, nên bảo mấy người kia đến trình diện với chính tế. Dĩ nhiên, không phải vì Thiên Chúa không thể ban ơn trực tiếp. Nhưng có những lúc vì có điều kiện thế nào, cần cho người ta phải nhớ Thiên Chúa muốn dùng trung gian hữu hình. Ai không biết vì những điều kiện hữu hình hay vô hình thế nào, không rõ tâm trạng người ta làm sao, không nên khinh phiêu hay khinh thị một bên nào. Vẫn hay vô hình, trước là Thiên Chúa và các thánh, sau là ý tưởng và tâm tình của người ta, thì cần hơn hữu hình; nhưng bao lâu còn sống dưới đất này, có nhiều lúc hữu hình, như những ngôn ngữ, cử chỉ vật chất cũng rất cần. Nhưng cần vì theo và giúp vô hình, chứ không phải không có hay phản ngược vô hình. Theo đó, với tinh thần và ý nghĩa tôn giáo cho chính đáng, có những lúc gặp được người đại diện Thiên Chúa, hoặc có thể dùng ngôn ngữ, cử chỉ, hay những thứ vật chất thế nào, theo Giáo Quyền chỉ định, thì mình nên thực hiện. Nếu có lòng khinh phiêu hay khinh thị thì không đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng đừng tưởng chỉ có những người đại diện và những thứ hữu hình là đủ, Thiên Chúa đã giao toàn quyền cho các ngài và các thứ ấy, không có thì người ta không được ơn Thiên Chúa, hay là có thể mất linh hồn. Có ý tưởng như thế là sai lầm, dị đoan, mất lòng Thiên Chúa, Đấng đầy ‘Lòng Thương Xót’.
(2) Vì thế, khi chỉ có một người kia trở lui chúc tụng Thiên Chúa, tạ ơn Thiên Chúa, thì Chúa Giêsu khen người ấy và trách chín người kia. Khen vì một người ngoại bang chưa tin tôn giáo như người Do Thái, lại biết ý Thiên Chúa và luật Thiên Chúa trong việc hữu hình và vô hình. Trước đã biết vâng lời Thiên Chúa, ra đi bày tỏ cùng chính tế, sau lại biết phải trở lui, đem ngôn ngữ và cử chỉ của mình để tạ ơn Thiên Chúa. Chín người kia không trở lui, không hẳn là vong ơn; nhưng có khi vì không để ý, hay là tưởng 6 không cần phải có những việc bề ngoài. Thiên Chúa không trách những người bị ngăn trở thế nào, nên không có những việc hữu hình. Nhưng Thiên Chúa trách người có thể thi hành những việc ấy, lại khinh phiêu hay là lười biếng, bỏ qua đi. Hay là Thiên Chúa trách những người không biết phân biệt việc này việc khác, việc gì nên làm trước, việc gì có thể làm sau. Biết đâu trong những người không trở lui để biểu lộ tâm tình chúc tụng và tạ ơn ‘Lòng Thương Xót của Thiên Chúa’, lại có người theo lời chính tế hay là theo những tục lệ của mình, còn lo làm việc gì khác. Có khi họ ngờ là việc tôn giáo, nhưng họ đã không để ý đến việc tôn giáo trước hết là phải chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa; không có việc gì khác, hữu hình hay vô hình, có thể thay thế những việc này.
(3) Vẫn hay Thiên Chúa không cần gì cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa muốn người ta sống đúng luật của Thiên Chúa về con người. Vì ý tưởng thì hiểu biết phải tỏ lòng nhớ ơn, vì tâm tình thì vui sướng thỏa mãn khi mình tỏ lòng nhớ ơn, và khó chịu bứt rứt lúc mình bỏ qua những việc này. Ai không cảm thấy như thế thì không còn làm người, không bằng cầm thú. Luật Thiên Chúa rất khéo, không những Thiên Chúa đặt những đòi hỏi thiên nhiên như thế trong lý trí và tâm tình người thụ ơn, Thiên Chúa lại đặt cả nơi người thi ơn. Dấu hiển nhiên, là chính những người cao thượng biết không nên đòi hỏi người ta nhớ ơn, nhưng cũng không tránh khỏi đau đớn buồn phiền khi thấy người ta vong ơn phụ bạc, nhất là họ trở lại làm hại mình. Đáng tiếc có lối giáo dục dựa vào những đòi hỏi thiên nhiên đó mà dạy nếu không nhớ ơn thì sẽ bị phạt, người ta không còn giúp đỡ mình. Khiến cho có người tạ ơn với những ý tưởng để cho ân nhân sẽ còn giúp mình nhiều việc khác, thì đâu còn phải là tạ ơn, nhưng chỉ là mua chuộc. Hay là có người thù oán những kẻ không tạ ơn mình, thì mình trở nên người bán việc cho có lời, chứ không phải là người giúp đỡ để thi ân. Cũng đáng tiếc những lối giáo dục tổ chức thế nào, làm cho có những người không còn sống đúng con người, không những dễ dàng phụ phàng ơn nghĩa, lại còn làm hại ân nhân của mình, dù họ chỉ giúp đỡ mình trong việc dễ dàng nhỏ mọn; nếu là việc khó khăn, quan trọng, lâu dài, thì càng quái gở đến thế nào. Như có những người giải thích về khía cạnh làm việc có tiền công, hay là tình cờ, hoặc là bổn phận, rồi tự miễn cho mình lòng nhớ ơn. Không những đối với người ta, không nên giải thích như thế; lại đối với Tạo Hóa, mình càng phải nhận bao nhiêu những thứ mình 7 hưởng thụ, từ sinh đến tử, đều nhờ ‘Lòng Thương Xót’ của Ngài, thì mình càng phải nhớ ơn Ngài. Cũng không nên đổ cho Ngài những thứ đau khổ của mình hay của người khác, để cho chính mình hay người khác không nhớ ơn, lại sinh lòng oán hận Ngài./- @Thiên Phong-Trần Minh Đức Bảy
niemtinm@aol.com