TRẢ NỢ LÒNG THƯƠNG XÓT
Chính khách Benjamin Franklin (1706-1790, Hoa Kỳ) so sánh một thực tế đơn giản mà thâm thúy: “Thà lên giường ngủ mà không ăn tối còn hơn thức dậy vẫn mang nợ nần”. Nghèo mà không nợ ai, thế là an tâm, thế là hạnh phúc rồi.
Có nhiều dạng nợ, thực tế đời thường là nợ về tiền bạc, vật chất. Có lẽ không ai lại không đã từng hơn một lần là con nợ của người khác, chí ít cũng là vài chục ngàn đồng (theo giá trị tiền Việt Nam ngày nay).
Số tiền nợ càng nhiều thì mức khổ càng nhiều. Vì nghèo mà mắc “cái eo”, chẳng đặng đừng mà phải chịu mang nợ, chứ chẳng ai muốn. Đó là nói những con người làm ăn lương thiện, còn những người “bóc ngắn, cắn dài”, “vung tay quá trán” hoặc “sĩ diện” mà phải mang nợ thì… miễn bàn.
Con nợ khổ thật. Chính cụ Nguyễn Công Trứ (1778-1858) đã “Than Nghèo” thế này: “Chửa chán ru mà quấy mãi đây, Nợ nần dan díu mấy năm nay, Mang danh tài sắc cho nên nợ, Quen thói phong lưu hóa phải vay”. Ngày nay gọi đó là… “chảnh”.
Có những món nợ vì vay mượn – tất nhiên là phải trả, nhưng có những món nợ không vay mượn mà vẫn phải trả: nợ yêu thương, nợ thương xót. Nói là “không vay” chứ thật ra người ta vay mượn nhau một cách mặc nhiên, ngầm hiểu mà thôi.
Hãy nghe Thánh Phaolô khuyên nhủ: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái” (Rm 13:8a). Món nợ này rất kỳ diệu, bởi vì “ai yêu người thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13:8b). Yêu người là yêu Chúa, miệng nói kính mến Thiên Chúa mà không yêu thương tha nhân thì chỉ là nói xạo (x. 1 Ga 4:7-21). Tuy nhiên, Chúa Giêsu còn “nghiêm khắc” hơn về món nợ này, Ngài bắt buộc mỗi người trong chúng ta đều phải “trả hết đồng xu cuối cùng” (Mt 5:26).
Đó cũng là mệnh lệnh. Thời Cựu Ước, ông Môsê nói với dân chúng: “Nếu anh em nghe tiếng Chúa, Thiên Chúa của anh em, hãy giữ những mệnh lệnh và thánh chỉ Người, ghi trong sách Luật này, miễn là anh em trở về với Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ. Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em” (Ðnl 30:10-11). Ông cho biết thêm rằng mệnh lệnh đó không ở trên trời, cũng không ở bên kia biển, mà ở rất gần chúng ta, ngay trong miệng, ngay trong lòng chúng ta, để chúng ta đem ra thực hành (Ðnl 30:12-14).
Thật vậy, có lẽ chúng ta sống trên mây nên thích mơ mộng xa vời, hão huyền, chuyện gần không lo mà cứ ngóng chuyện đâu đâu. Nói theo kiểu bình dân là “lo bò trắng răng”. Phép lạ hằng ngày xảy ra xung quanh chúng ta, cụ thể là xảy ra cho mỗi chúng ta, thế mà nghe nói ở đâu có “sự lạ” là đã xôn xao rồi. Kể cũng kỳ cục thật đấy!
Vâng, Hồng Ân Thiên Chúa luôn dạt dào, bao la, cao vời khôn ví. Tác giả Thánh Vịnh đã cảm nhận sâu sắc nên đã thốt lên: “Lạy Chúa, phần con xin dâng Ngài lời nguyện, lạy Chúa Trời, đây giờ phút thi ân. Xin đáp lại, vì ơn cả nghĩa dày, vì Chúa vẫn trung thành ban ơn cứu độ” (Tv 69:14).
Tuy nhiên, không phải vì thế mà ỷ lại, ảo tưởng. TIN Thiên Chúa yêu thương mình thì không là kiêu ngạo, nhưng TƯỞNG Thiên Chúa yêu thương mình thì là kiêu ngạo. Làn ranh giữa TIN và TƯỞNG rất mong manh, phải hết sức cẩn thận, đồng thời phải thành tâm cầu xin: “Lạy Chúa, xin lấy lòng nhân hậu mà đáp lại lời con; xin mở lượng hải hà mà đoái thương nhìn đến” (Tv 69:17).
Có nhiều lý do để chúng ta cầu xin, đơn giản nhất là nhận biết mình yếu đuối: “Phần con đây, thật khốn cùng đau khổ, lạy Chúa Trời, xin cứu vớt đỡ nâng” (Tv 69:30). Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, mà trước tiên phải là tạ ơn và chúc tụng: “Tôi sẽ hát bài ca chúc mừng Danh Thánh, sẽ dâng lời cảm tạ tán dương Người” (Tv 69:31). Được như vậy thì Thiên Chúa sẽ vui mừng chúc lành cho chúng ta.
Với đứa con yếu đuối, cha mẹ yêu thương đặc biệt. Đó là hình bóng của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, vì Ngài rất yêu thương và quan tâm những người mọn hèn – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, như Thánh Phaolô xác nhận: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5:20).
Thế thì thật may mắn cho những tội nhân chúng ta! Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta “mắc nợ” Ngài. Vì thế, tác giả Thánh Vịnh mời gọi và động viên: “Những ai nghèo hèn, xem đấy mà vui lên, người tìm Thiên Chúa, hãy nức lòng phấn khởi. Vì Chúa nhậm lời kẻ nghèo khó, chẳng coi khinh thân hữu bị giam cầm” (Tv 69:33-34).
Thánh Phaolô xác nhận rằng “Đức Kitô đứng hàng đầu”, vì Ngài là Vua của các vua và Chúa của các chúa, mọi quyền hành. Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúa Cha không xét xử một ai, nhưng đã ban cho người Con mọi quyền xét xử, để ai nấy đều tôn kính người Con như tôn kính Chúa Cha. Kẻ nào không tôn kính người Con thì cũng không tôn kính Chúa Cha, Đấng đã sai người Con” (Ga 5:22-23).
Thánh Phaolô phân tích: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người” (Cl 1:15-16).
Thật hạnh phúc vì chúng ta được ơn nhận biết Đấng mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất, chứ không có bất cứ thần linh nào khác. Điều này thật hay không, và Đấng đó là ai? Thánh Phaolô cho biết: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người. Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự, Người đứng hàng đầu” (Cl 1:17-18). Như vậy là quá rõ ràng, chúng ta đều là các chi thể, nghĩa là chúng ta không thể là một “phần rời”, mà là “phần dính” thì có tính liên đới về mọi sự – cả hữu hình và vô hình, cả tâm linh và xã hội. Ai tự tách rời là tự hủy diệt.
Quả thật, Thánh Phaolô cho biết nguyên nhân rạch ròi: “Vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1:19-20).
Thiên Chúa đại lượng, dù chúng ta hoàn toàn bất xứng, thế nhưng được nhận lãnh mọi thứ rồi chúng ta lại quá hẹp hòi, ngôn hành không song song về việc thực thi đức ái hoặc lòng thương xót, không chỉ với nhau mà đôi khi chúng ta còn so đo với chính Đấng đã đại lượng với mình. Tệ thật đấy!
Trình thuật Lc 10:25-37 nói về lòng thương xót. Thật vậy, yêu thương là “điều răn lớn” hơn hết.
Một hôm, có người thông luật muốn thử Chúa Giêsu nên hỏi Ngài về cách sống tốt nhất để được sự sống đời đời. Đức Giêsu trả lời bằng cách hỏi ngược lại ông ta: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Là người thông luật nên ông ta nói trôi chảy: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy thì sẽ được sống”.
Một tấc lên tới trời. Nếu được hỏi, chắc hẳn chúng ta cũng có thể trả lời ngay, không cần suy nghĩ lâu. Nhưng đó mới chỉ là lời nói suông. Từ miệng tới tay là con đường rất ngằn nhưng cũng rất dài, giống như vô tận vậy.
Đức Giêsu nói vậy quá đúng, nhưng ông ta muốn chứng tỏ là mình có lý, nên hỏi vặn: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Đức Giêsu cười và ôn tồn kể dụ ngôn người Sa-ma-ri tốt lành:
Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có THẦY TƯ TẾ cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một THẦY LÊ-VI đi tới chỗ ấy, cũng thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một NGƯỜI SA-MA-RI kia đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương. Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông đưa tiền cho chủ quán và nhờ săn sóc nạn nhân, tốn kém thêm bao nhiêu rồi ông sẽ hoàn lại sòng phẳng.
Nghe dụ ngôn này thấy “nhột” quá. Là thầy này thầy nọ, ông nọ bà kia, chức cao phẩm lớn, nhưng viện đủ lý do để làm ngơ người khác: lấy cớ bận việc, không có thời gian, vội vì có việc gấp, không muốn khó đến mình,… Đó là tự biện hộ cho sự vô cảm xấu xa của mình. Còn người mà chúng ta nhìn bằng nửa con mắt lại là NGƯỜI TỐT.
Đức Giêsu hỏi người thông luật: “Vậy theo ông, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Người thông luật cũng mau mắn trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy”. Đức Giêsu bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”.
Hai lần Chúa Giêsu bảo người thông luật “làm như vậy”. Liệu ông ta có làm như vậy? Không ai biết, nhưng rất có thể là “không”, vì điều đó khó quá. Và Chúa Giêsu cũng bảo chúng ta y như thế. Làm hay không là quyền tự do của mỗi người, Chúa Giêsu không ép buộc ai!
“Làm như vậy” đơn giản mà phức tạp, dễ mà khó. Ai “làm như vậy” là thanh toán món nợ lòng thương xót đối với nhau – và Thiên Chúa coi như là làm cho chính Ngài (x. Mt 25:31-46), tất nhiên ai “làm như vậy” thì “tên được ghi trên trời” (Lc 10:20), và chắc chắn sẽ được lãnh nhận sự sống đời đời như Chúa Giêsu đã xác nhận.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con nhận biết mình là “con nợ” của Ngài và của tha nhân, để nhờ vậy mà con thực sự biết sống khiêm nhường và biết sống cho tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU