Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin mừng Chúa nhật Truyền Giáo của LM ĐAN VINH

Suy niệm Tin mừng Chúa nhật Truyền Giáo của LM ĐAN VINH

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN A

CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO

Xh 22,20-26; 1 Tx 1,5c-10; Mt 28,16-20

 

BÀI GIẢNG BIẾT ĐI

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20

(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.

2. Ý CHÍNH: LỆNH CUỐI CÙNG CỦA CHÚA PHỤC SINH:

Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra lần cuối cùng với các môn đệ trên một ngọn núi tại Ga-li-lê. Trước khi lên trời, Người đã trao cho các ông sứ mạng đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người, làm phép rửa tội cho những ai có lòng tin nhân Danh Chúa Ba Ngôi. Người cũng truyền cho các ông sứ mạng dạy các tín hữu phải giữ mọi huấn lệnh của Người và hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.

3. CHÚ THÍCH:

– C 16-17: + Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai đã bị mất Giu-đa thắt cổ tự tử nên chỉ còn mười một ông (x. Mt 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Theo lời nhắn của hai thiên thần qua hai phụ nữ và lời của Chúa Phục Sinh đã nhắc lại vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt 28,7.10), mười một ông đã quay lại Ga-li-lê là miền đất truyền giáo của Đức Giê-su trong gần ba năm giảng đạo. Qua đó, Tin mừng Mát-thêu muốn nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Đức Giê-su lịch sử, tức là khi Người còn sống và rao giảng Tin Mừng, với Chúa Ki-tô của niềm tin, là sau khi Người đã từ cõi chết sống lại. + Đến ngọn núi: Tin mừng Mát-thêu không xác định là núi nào. Còn theo sách Công Vụ thì đó là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng cho nơi Thiên Chúa mặc khải cho các ngôn sứ Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 1V 19,8-14). Trong Tin mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi rao giảng Tin mừng phổ quát cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt 28,16). + Khi thấy Người, các ông bái lạy: Ở đây các môn đệ đã biểu lộ niềm tin vào Chúa Giê-su Phục Sinh qua thái độ bái lạy Người, giống như các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt 2,2.8.11), người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x. Mt 14,33), người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy để xin Đức Giê-su chữa cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi: Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy Chúa Giê-su xem ra khó hiểu. Thực ra, đến lúc này mọi môn đệ đều đã tin Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và không ai còn hoài nghi gì nữa. Nhưng trước đó, sự nghi ngờ đã xuất hiện nhiều lần trong các trình thuật hiện ra khác, và mỗi lần sự hoài nghi đều được đánh tan bằng một cách thức khác nhau. Chẳng hạn: Chúa Phục Sinh đã ăn một khúc cá nướng trước mặt các ông (x. Lc 24,41); Người thỏa mãn đòi hỏi được mắt thấy tay sờ của Tô-ma và trách ông cứng lòng tin (x. Ga 20,24). Ở đây, Chúa Giê-su đánh tan sự hoài nghi của một vài môn đệ bằng lời khằng định: Người đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Do đó, sự hòai nghi trong câu này ám chỉ sự hoài nghi của cộng đoàn Hội thánh nói chung. Từ nay các tín hữu không được đòi “Thấy rồi mới tin” như Tông đồ Tô-ma, nhưng phải dựa vào Lời Chúa và quyền năng của Người để xác định niềm tin như Lời Chúa phán: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20,29).

– C 18-19: + Đức Giê-su đến gần: Đến gần là một hành động bày tỏ lòng ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách giữa Thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Khởi đầu rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối nhận quyền Sa-tan hứa ban mọi nước thế gian (x. Mt 4,8-10), thì giờ đây Người đã được Thiên Chúa ban cho tất cả. Thế là ứng nghiệm lời tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội thánh phải nhân Danh Chúa Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Ngòai việc rao giảng Tin Mừng để người ta tin theo, các môn đệ còn ban phép rửa nhân Danh Chúa Ba Ngôi để tái sinh họ làm con Thiên Chúa. + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền: Công việc đào tạo người ta nên môn đệ còn phải được tiếp tục sau phép rửa, bằng lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện trong Hội Thánh để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng cho đến khi Người lại đến vào ngày tận thế. Câu này cho thấy Đức Giê-su chính là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Is 7,14; Mt 1,23).

4. HỎI ĐÁP:

– HỎI 1: Mười một môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su truyền đến Ga-li-lê (x. Mt 28,10). Khi gặp Người, các ông đều bái lạy, nhưng có mấy ông vẫn còn hoài nghi (17). Phải chăng thái độ của các ông đã tỏ ra mâu thuẫn khi vừa bái lạy, lại vừa hoài nghi ?

ĐÁP:

Có hai ý kiến giải thích về sự hoài nghi của một số môn đệ lúc đó như sau:

1. Ý kiến thứ nhất: Ở đây các ông không hoài nghi việc Chúa đã sống lại, nhưng hoài nghi không biết người đang tiến lại gần kia có phải là Chúa Giê-su hay không. Giống như trường hợp Ma-ri-a Mác-đa-la lầm tưởng Người là ông làm vườn (x. Ga 20,15), hoặc như hai môn đệ làng Em-mau tưởng Người là một lữ khách cùng đi trên đường với mình (x. Lc 24,15-16). Tuy nhiên lời giải thích này vẫn khó hiểu. Vì các ông đã bái lạy tức là đã nhận ra Chúa Phục sinh rồi, thì tại sao lại còn hoài nghi không biết có phải là Thầy hay không?

2. Ý kiến thứ hai: Mát-thêu cần phải nói đến sự hoài nghi trước khi các ông đạt được lòng tin đầy đủ. Vì không tường thuật các cuộc hiện ra khác, nên không có cơ hội đề cập đến sự hoài nghi của các môn đệ trước khi các ông hoàn toàn tin Thầy sống lại, như các Tin Mừng khác đều có nói đến. Vì thế Mát-thêu đã phải đặt sự hoài nghi vào lúc này, không phải đúng như thái độ của các ông khi ấy, nhưng là của các ông trong một lúc nào đó trước khi các ông đạt tới đức tin trọn vẹn. Như vậy, chúng ta có thể coi đây là như một sự trục trặc về cách hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng.

– HỎI 2: So sánh lệnh truyền của Mát-thêu với lệnh truyền của Chúa Giê-su trong sách Công Vụ Tông Đồ (x. Cv 1,8), có sự khác biệt về tính phổ quát của công cuộc truyền giáo và công thức rửa tội: Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Phải chăng lời Đức Giê-su ra lệnh cho các môn đệ trong Tin Mừng Mát-thêu đã được Hội Thánh sau này thêm vào để chứng minh cho giáo lý về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi ?

ĐÁP:

Thực ra theo Lu-ca, tác giả sách Công Vụ TĐ thì Hội Thánh sơ khai đã phải trải qua nhiều kinh nghiệm mới nhận thức hết ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát là đến với muôn dân. Rồi trong Công Vụ TĐ chúng ta chỉ thấy nói tới việc rửa tội “Nhân danh Đức Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48). Từ những nhận định trên, chúng ta có thể quả quyết rằng: mệnh lệnh phổ quát đã được Đức Giê-su ban bố, nhưng lệnh đó chỉ được sáng tỏ dần dần do ơn soi dẫn của Thánh Thần (x. Ga 16,12-13). Nhờ trải qua kinh nghiệm sống, Hội Thánh đã dần nhận ra ý nghĩa của lệnh truyền phổ quát đó. Đến khi Tin Mừng được soạn thảo, thánh Má-thêu đã dùng công thức rửa tội nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, mà Hội thánh được“Thần khí Sự Thật” dạy dỗ, đã đưa vào trong công thức phụng vụ phép rửa, thay cho công thức rửa tội “nhân danh” Chúa Giê-su” như sách Công Vụ thuật lại.

– HỎI 3: Tại sao khi truyền cho các môn đệ “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, Đức Giê-su lại đòi các ông: “Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (19-20). Phải chăng Chúa bảo các ông rửa tội trước rồi mới dạy dỗ sau ?

ĐÁP:

Công việc cứu thế của Đức Giê-su được Tin Mừng Mát-thêu mô tả gồm có bốn việc mà Người trao cho Hội Thánh tiếp tục thực hiện sau này: Một là rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (x. Mt 4,23; 7,28-29). Hai là chữa bệnh như chữa lành bệnh phong cùi (x. Mt 8,3), tê liệt (x. Mt 8,6.13), cảm sốt (x. Mt 8,15), băng huyết (x. Mt 9,20-22), phục sinh một bé gái (x. Mt 9,25), chữa bệnh mù (x. Mt 9,29), chữa nhiều bệnh khác (x. Mt 15,30-31)… Ba là trừ quỷ như Xua đuổi ma quỷ khỏi người bị nó nhập vào (x. Mt 8,16), trừ quỷ câm (x. Mt 9,32-33), đuổi quỷ kinh phong (x Mt 17,15-18). Bốn là dạy dỗ: Tiếp tục dạy dỗ tân tòng tuân giữ mọi huấn lệnh của Người (x. Mt 28,20).

– Riêng về việc phải thực hiện điều nào trước giữa rửa tội và dạy dỗ, thì câu Chúa phán không dạy về các việc phải làm trước sau, nhưng muốn diễn giải sứ mệnh “đi thâu nạp môn đệ khắp muôn dân” gồm hai việc là rửa tội và giảng dạy. Ngay từ thời sơ khai, Hội Thánh luôn giảng dạy trước để chuẩn bị dự tòng lãnh nhận phép rửa tội sau. Sách Đi-đa-kê đã hướng dẫn cụ thể về việc cử hành phụng vụ phép rửa như sau: “Sau khi đã nói tất cả những điều đó, hãy rửa tội…” (Didaché 7,1).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19).

2. CÂU CHUYỆN: BÀI GIẢNG BIẾT ĐI

EN-BỚT SUÝT-DƠ (Enbert Schweitser) vừa là một bác sĩ lừng danh lại vừa là một vị thừa sai truyền giáo. Ông đã tình nguyện sang tận Phi Châu để truyền giáo. Tại đây, ông đã dùng tài sản để xây dựng các bệnh viện miễn phí cho người nghèo, rồi giới thiệu Thiên Chúa là tình thương cho bệnh nhân cùng các thân nhân của họ qua việc tận tình chữa bệnh. Công việc bác ái của ông đã được nhiều người biết đến và hết lời ca ngợi. Ông đã được giải No-bel hòa bình vì đã có công đem lại hạnh phúc cho người nghèo tại Phi Châu. Câu chuyện sau đây cho thấy tinh thần bác ái của ông có một sức mạnh lớn lao, giống như một BÀI GIẢNG BIẾT ĐI như sau:

Vào một buổi chiều nọ, người ta thấy một đám người rất đông tụ tập nơi nhà ga xe lửa của thành phổ Chi-kê-gô (Chicago) Hoa kỳ, để đón chào một nhân vật nổi tiếng, mới được nhận giải Nô-ben hòa bình năm 1952. Người vừa bước xuống khỏi toa xe lửa là một người đàn ông cao lớn tóc húi cua, trên khuôn mặt phúc hậu của ông có một chòm râu được cắt tỉa cẩn thận. Bấy giờ các phóng viên mà một số nhân vật cao cấp của thành phố đang đứng chờ ở gần cửa toa xe hạng nhất. Khi vị thượng khách xuất hiện, các phóng viên liền bấm máy chụp liên hồi, đang khi đám đông vỗ tay reo hò. Ông khách quý đã cười thật tươi và cúi đầu đáp lễ mọi người. Còn các vị lãnh đạo thành phố thì dang rộng đôi tay để chào đón người mới đươc giải thưởng Nô-ben hòa bình. Nhưng bỗng nhiên, vị khách kia quay mặt nhìn về phía cuối sân ga và vội vã vượt qua đám đông đứng vây quanh, tiến đến gần một người đàn bà lớn tuổi. Bà này hai tay đang xách hai chiếc va-li khá nặng. Khi đến nơi, vị khách quý mỉm cười với bà và đưa tay ra đỡ cho bà ta một chiếc va-li, rồi hai người đi đến một chiếc xe buýt đậu gần đó. Sau khi người đàn bà lên xe, ông không quên chúc bà thượng lộ bình an. Khi quay trở lại đám đông đang đợi mình, ông nhỏ nhẹ nói: “Xin lỗi quí vị. Tôi rất tiếc đã để quý vị phải chờ đợi”. Người đàn ông với cử chỉ đẹp đó không ai khác hơn là bác sĩ EN-BỚT SUÝT-DƠ (Anbert Schweitser), một nhà truyền giáo nổi tiếng, đã cống hiến cả cuộc đời phục vụ những người nghèo khổ tại Phi Châu. Một thành viên trong ban tổ chức cuộc tiếp đón chứng kiến hành động của Suýt-dơ ở sân ga hôm đó, đã phát biểu cảm tưởng với các phóng viên rằng: “Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi đã được chứng kiến một bài giảng biết đi”.

3. SUY NIỆM: ĐẾN VỚI MUÔN DÂN

1) LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊ-SU:

Hôm ấy, mười một môn đệ Đức Giê-su đã trở về Ga-li-lê như Chúa Phục Sinh đã hẹn qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x.Mt 28,10). Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su đã nói với các môn đệ ba điều  như sau:

– Một là: Người đã được trao “Toàn quyền trên trời dưới đất” (18). Điều này nhắc chúng ta nhớ lại khi Đức Giê-su bị cám dỗ, tên cám dỗ đã nói với người rằng: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi” (Mt 4,9). Nhưng Người đã không theo lời xúi giục của nó. Bây giờ, Chúa Cha đã ban cho Người chẳng những các nước thế gian, mà còn có “toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28,18).

– Hai là: Người ra lệnh cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (19). Trong thời gian giảng đạo, Đức Giê-su dạy các ông chỉ đi loan báo Tin Mừng cho dân Ít-ra-en, vì đây là dân Chúa chọn có quyền ưu tiên (x. Mt 10,5-7). Nhưng bên cạnh đó, Người cũng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại và làm phép lạ cứu giúp những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Chẳng hạn: Viên đại đội trưởng ngoại giáo có đức tin mạnh đã được Người chữa cho đầy tớ của ông khỏi bệnh tê liệt (x. Mt 8,5-13); Người đàn bà Ca-na-an có đức tin mạnh đã được Đức Giê-su trục xuất quỷ ra khỏi đứa con gái của bà (x. Mt 15,28).

– Ba là: Người hứa “sẽ ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế” (20). Ngày xưa Đức Chúa đã hứa ở với Mô-sê khi sai ông đi cứu dân Ít-ra-en khỏi tay Pha-ra-ô của Ai-Cập như sau: “Ta sẽ ở với người” (Xh 3,12). Hôm nay, Đức Giê-su cũng hứa ở cùng các môn đệ để giúp các ông chu toàn nhiệm vụ được Người trao phó. Cũng như Mô-sê xưa nhờ được Đức Chúa hiện diện phù giúp đã đưa được dân Ít-ra-en thoát cảnh nô lệ cho dân Ai-Cập mà về tới Hứa Địa, thì nay với sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, các môn đệ cũng sẽ thành công trong sứ mạng “đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Người”.

2) SỨ MẠNG CỦA CÁC MÔN ĐỆ:

– Lịch sử cứu độ không kết thúc với việc Đức Giê-su lên trời, nhưng là kết thúc với việc người trao cho các môn đệ sứ mệnh truyền giáo. Thực vậy, Đức Giê-su đã chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đã mở ra một con đường về trời cho nhân loại chúng ta. Đó là đường: “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mt 20,18-19). Giờ đây trước khi về trời, Người lại trao sứ mệnh cho các môn đệ tiếp tục rao giảng Tin Mừng, không giới hạn trong nước Do Thái, nhưng là làm chứng cho Người “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).

– Sau khi nhận được Thần Khí của Chúa Phục Sinh, các môn đệ đã đi tới các miền Sa-ma-ri, An-ti-ô-khi-a, A-thê-na, và cuối cùng đến Rô-ma, tượng trưng cho tận cùng thế giới theo quan niệm thời bấy giờ. Các ngài đã làm chứng cho Đức Giê-su bằng việc sẵn sàng chịu chết vì danh Chúa: Phao-lô bị chém đầu, Phê-rô bị đóng đanh ngược trên thập giá. Các Tông đồ khác trừ Gio-an, đều được phúc tử vì đạo. Nhưng đến lượt các Tông đồ lại trao bó đuốc Tin Mừng cho các tín hữu đi đến các thành phố khác khắp thế giới. Ngày nay, khi lãnh nhận phép rửa tội và thêm sức, chúng ta cũng đón nhận ánh sáng Tin Mừng để chiếu sáng đức tin tại môi trường mình sống, đến các xí nghiệp, trường học, chợ búa và mọi nơi mình hiện diện. Đến để rao giảng Tin Mừng, để chia sẻ niềm tin về Đức Giê-su chết và sống lại hầu mang lại hạnh phúc cho mọi người.

– Sứ mạng truyền giáo thật là khó khăn như kinh nghiệm của Hội Thánh suốt hai mươi thế kỷ qua đã chứng minh: Khó khăn bên ngoài do các vua quan cấm cách. Khó khăn bên trong do sự bất toàn của một số mục tử và do các gương xấu và tội lỗi của nhiều tín hữu Công giáo. Nhưng Đức Giê-su hứa sẽ luôn ở với Hội thánh cho đến tận thế. Người sẽ ra tay cứu giúp Hội thánh khỏi bị chìm đắm như đã từng cứu Tông đồ Phê-rô xưa (x. Mt 14,29-31). Đức Giê-su cũng hứa sẽ ban Chúa Thánh Thần để soi sáng và giúp các tín hữu hiểu biết sự thật toàn vẹn (x. Ga 16,7.13), như Người đã từng ban Thần Khí cho các môn đệ trong lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,14-4). Chính nhờ Thánh Thần mà chỉ sau bài giảng đầu tiên của Tông đồ Phê-rô tại Giê-ru-sa-lem, đã có tới ba ngàn người gia nhập đạo (x. Cv 2,41).

3) LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY:

– Chu toàn sứ mạng: Ngày nay nếu chúng ta quyết tâm chu toàn sứ mạng truyền giáo và sử dụng các phương thế của các môn đệ xưa là rao giảng Tin Mừng bằng chứng tích đời sống, thì chắc chắn chúng ta sẽ chu toàn được sứ mạng tông đồ: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ” (Mt 28,19), và “Nên chứng nhân của Thầy… cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Điều quan trọng phải làm ngay là đừng tiếp tục “đứng nhìn lên trời”, nhưng hãy sống công minh chính trực, chu toàn các việc bổn phận đối với Thiên Chúa và tha nhân. Nhất là luôn nghĩ tới người khác và đáp ứng nhu cầu của họ, khiêm nhường phục vụ những người đau khổ bất hạnh. Ngoài ra còn phải dấn thân đến với anh em chưa biết Chúa, để hợp tác với họ cải thiện xã hội và chia sẻ Chúa là Tình Yêu cho họ.

– Cần phải chủ động đi bước trước đến với anh em lương dân: Mỗi tín hữu chúng ta cần ý thức sứ mạng làm chứng cho Chúa bằng việc năng cầu nguyện cho một người thân trong gia đình như cha mẹ, anh chị em ruột thịt, một người bạn thân hay người hàng xóm chưa biết Chúa hay đang sống trong tội lỗi lạc xa Chúa… Hãy làm các việc bổn phận hằng ngày kèm theo sự hy sinh hãm mình và dâng một lời nguyện tắt để cầu cho họ sơm tin yêu Chúa. Ngoài ra, gặp bất cứ người nào khi đi tập thể dục buổi sáng tại công viên, khi ngồi cùng chuyến tàu xe, ngồi trong nhà chờ chuyến bay, cùng chung phòng tại bệnh viện, cùng đi trên xe đò đường dài… hãy chủ động bắt chuyện làm quen với họ để gây thiện cảm và tìm cơ hội nói về đạo cho họ, tặng họ một quyển sách truyện các thánh khi có dịp thuận tiện…

4. THẢO LUẬN:

1) Bạn nhận xét hành động của bác sĩ thừa sai Suýt-de trong câu chuyện trên là đúng hay sai? Tại sao? 2) Đối với những “Ki-tô hữu vô danh” là những người đã có đức tin và muốn theo đạo, nhưng vì hoàn cảnh chưa thuận lợi như là con trai trưởng phải lo cúng giỗ cha mẹ, nên chưa thể theo đạo ngay, chúng ta nên làm gì để giúp họ tin Chúa ? Nếu một người lương có đức tin nhưng chết khi chưa được rửa tội, có được cứu độ như người trộm lành trên thập giá với Đức Giê-su không ? (x. Lc 23,40-43).

5. NGUYỆN CẦU:

– LẠY Chúa GIÊ-SU. Trong ngày thế giới truyền giáo hôm nay, xin giúp chúng con ý thức sứ mạng của chúng con là phải loan báo Tin Mừng Nước Trời ngay trong môi trường chúng con đang sống. Giữa một thế giới u mê tăm tối, xin cho chúng con biết chiếu sáng đức tin bằng việc cầu nguyện cậy trông với lòng yêu mến Chúa. Giữa một thế giới chỉ muốn nhìn thấy hơn là nghe giảng, xin cho chúng con biết làm những việc thiện đi đôi với lời nói về Chúa. Giữa một thế giới còn nhiều chiến tranh thù hận, xin cho chúng con biết thực thi bác ái cụ thể như chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói và tận tình phục vụ những ai gặp hoàn cảnh khó khăn.

– LẠY Chúa. Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ Ma-ri-a: Sau khi đón nhận Ngôi Lời nhập thể, đã mang Thai Nhi Cứu Thế đến thăm gia đình Gia-ca-ri-a, mở lời chào hỏi bà Ê-li-sa-bét khiến thai nhi Gio-an nhảy mừng trong dạ mẹ, vì đã nhận được ơn cứu độ (x. Lc 1,39-45). Xin giúp chúng con sau mỗi lần rước lễ, cũng biết chia sẻ tình thương của Chúa cho anh em lương dân chưa nhận biết Chúa. Ước gì chúng con luôn cảm thấy thao thức trước cánh đồng truyền giáo, để xin Chúa sai thêm thợ đến gặt cánh đồng lúa đã chín vàng. Xin cho mỗi người chúng con sẵn sàng dấn thân đến với người chưa nhận biết Chúa, để loan báo Tin Mừng tình thương cho họ, bằng thái độ tiếp xúc ân cần, những lời động viên an ủi, và nhất là bằng hành động bác ái yêu thương và khiêm nhường phục vụ noi gương Mẹ Ma-ri-a xưa (x. Lc 1,56).

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH –  HHTM

 

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …