Home / Suy Niệm Lời Chúa / SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT PHỤC SINH B CỦA LM ĐAN VINH

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT PHỤC SINH B CỦA LM ĐAN VINH

 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

 

CHÚA NHẬT PHỤC SINH B

Cv 10,34a.37-43 ; Cl 3,1-4 ; Ga 20,1-9

 

CÙNG SỐNG LẠI VỚI CHÚA KI-TÔ

 

I.HỌC LỜI CHÚA

1.TIN MỪNG: Ga 20,1-9

(1) Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ.(2) Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu.” (3) Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. (4) Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. (5) Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. (6) Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, (7) và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. (8) Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. (9) Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải trỗi dậy từ cõi chết.

2.Ý CHÍNH:

Sau khi chịu chết vào chiều Thứ Sáu, Đức Giê-su đã được hai môn đệ an táng trong ngôi mộ đá. Nhưng đến ngày Thứ Nhất trong tuần, khi bà Ma-ri-a Ma-đa-lê-na ra thăm mộ đã tỏ ra hốt hoảng khi thấy tảng đá che đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp hai ông Phê-rô và Gio-an cấp báo sự thể. Hai môn đệ bán tín bán nghi cùng chạy ra mộ để xem rõ sự thể. Hai ông thấy ngôi mộ bị mở toang, nhìn vào trong thì thấy khăn liệm vẫn còn, nhưng xác Thầy đã biến mất. Ông Phê-rô im lặng suy nghĩ, đang khi Gio-an “đã thấy và đã tin”: Qua sự kiện xác Thầy biến mất nhưng khăn vải liệm vẫn còn để lại, nên đã suy luận và tin Thầy đã phục sinh.

3.CHÚ THÍCH:

-C 1: +Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ: Theo Tin Mừng Gio-an, do lòng mến thôi thúc mà chỉ mình bà Ma-ri-a ra thăm mộ để xức dầu thêm cho thân xác mới an táng của Thầy.

-C 2: +Bà liền chạy về gặp ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến: Khi thấy “tảng đá đã lăn khỏi mộ”, bà liền vội vã chạy về nhà Tiệc Ly thông báo sự kiện mồ trống cho hai ông Phê-rô và Gio-an là những người lãnh đạo Nhóm Mười Hai. + Bà nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”: Câu này cho thấy bà không hề nghĩ là Thầy Giê-su có thể đã phục sinh.

-C 3: + đi ra mộchạy mau hơn: Sở dĩ Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô và đến mộ trước Phê-rô là do ông còn trẻ và có sức khỏe dồi dào hơn ông Phê-rô.

-C 4: + Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào: Gio-an thể hiện sự tôn trọng Phê-rô là đán anh, vừa cao niên hơn lại vừa được Đức Giê-su đặt làm người đứng đầu Nhóm Mười Hai.

-C 6: + Ông Si-môn Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó: Câu này cho thấy tính quyết đoán của Phê-rô. Tuy có chậm hơn Gio-an, nhưng ông Phê-rô đã được Gio-an tôn trọng nhường bước vào bên trong mộ trước. Ông Phê-rô “nhìn thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giê-su”. Điều này cho thấy giả thuyết bà Ma-ri-a thông báo xác Thầy đã bị đánh cắp là không có cơ sở, vì “kẻ trộm sẽ chẳng dại mất quá nhiều thời giờ để ngồi tháo các băng vải, cuộn lại đặt riêng ra một nơi” (Theo suy niệm của thánh Gioan Kim Khẩu).

-C 8: + Ông đã thấy và đã tin: Ông Gio-an tuy vào mồ sau Phê-rô, nhưng có lẽ Gio-an đã đạt tới đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh trước Phê-rô do lòng mến thôi thúc. Chính nhờ lòng mến này mà sau đó, Gio-an đã luôn nhận ra Thầy trước các anh em như ông đã nhận ra Thầy là người mới vừa đứng trên bờ hồ hướng dẫn các ông thả lưới bắt mẻ cá lạ lùng (x. Ga 21,7).  

4. CÂU HỎI: 1) Lý do nào khiến bà Ma-ri-a Mác-đa-la ra thăm mộ từ sáng sớm ngày Thứ Nhất và bà ra thăm mộ để làm gì? 2) Hai môn đệ là Phê-rô và Gio-an đóng vai trò thế nào trong Nhóm Mười Hai Môn Đệ của Đức Giê-su ? 3) Khi thấy cửa mộ mở và xác Thầy biến mất, bà Ma-ri-a có tin Thầy đã sống lại không? Câu nói nào của bà cho thấy thái độ không tin Thầy đã sống lại?  4) Tại sao Gio-an chạy nhanh hơn Phê-rô? 5) Cả hai ông đều thấy mồ trống, đều thấy những tấm băng vải cột xác Thầy khi an táng đã được xếp để lại gọn gàng và ai trong hai ông đã tin Thầy sống lại chứ không bị kẻ xấu đến lấy trộm xác?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1.LỜI CHÚA: Ông đã thấy và đã tin (Ga 20,8b).

2.CÂU CHUYỆN: Một Sư Bà đã được sống lại về phần linh hồn trong giờ chết.

Cha Giuse Bùi Văn Nho, cha sở họ đạo GIƠN ĐẮC (Jeanne d’ Arc) nhà thờ ngã sáu Chợ lớn đã thuật lại câu chuyện cảm động mà chính cha là người trong cuộc như sau:

Vào một đêm khuya thanh vắng bỗng chuông điện thoại trong nhà xứ reo vang. Có tiếng một bà phước mời cha đến ngay bệnh viện Hồng Bàng để ban phép giải tội cho một sư bà đang nằm điều trị tại đây. Sư bà ngỏ ý muốn gặp cha để xin xưng tội. Sau khi tìm hiểu kỹ về trường hợp này, cha biết được sư bà này vốn là người Công giáo, nay gần chết sư bà đã nhờ bà phước mời cha đến giúp bà được sống lại trong ơn nghĩa Chúa!

Khi đến nơi, thấy sư bà đang nằm thở thoi thóp không nói nhiều được. Cha chỉ hỏi vắn tắt mấy câu để biết rõ xem sư bà có phải là người Công giáo không?

– Tên thánh bổn mạng của bà là gì?

– Maria Anna.

Câu trả lời của sư bà khiến cho cha yên tâm để giúp bà sám hối tội lỗi, trước khi ban phép giải tội, phép xức dầu bệnh nhân và cho bà rước lễ như của ăn đàng. Trước khi về nhà, cha còn căn dặn bà phước: nếu sư bà tỉnh lại, phải báo lại cho cha biết để đến giúp gia tăng đức tin. Bốn ngày sau, bà phước báo tin sư bà đã hồi tỉnh và muốn được gặp cha. Cha đã đến gặp và nghe bà tâm sự về cuộc đời và lý do đi tu chùa của bà như sau:

“Thưa cha, quê con ở Cái Nhum, Chợ Lách, thuộc giáo xứ cha P. Thắng. Con bấy giờ là trưởng hội hát trong xứ và là hội viên đoàn con Đức Mẹ. Khi lên 20 tuổi có một thanh niên ở Sài-gòn làm quen và sau đó xin cưới. Hai gia đình đồng ý và đã làm lễ hỏi. Đến gần ngày hẹn, vị hôn phu lại xin hoãn lại ba tháng để thi lấy bằng thành chung. Anh đã về Sài-gòn và dặn con cứ an tâm chờ đợi. Ba tháng, bốn tháng rồi một năm rưỡi qua đi mà vẫn bặt tin tức của anh. Con buồn rầu xấu hổ, nhất quyết lên Sài-gòn đi tìm, dù mọi người thân đều ngăn cản. Một hôm con đã lén ăn cắp ít tiền của cha mẹ, rồi trốn lên Sài-gòn trong tình trạng bơ vơ không biết đi về đâu. Sau đó con đã tìm đến nhà một chị bạn đồng hương và được cho ở trọ. Ngày ngày con đi dò la tin tức mà vẫn không gặp người xưa. Rồi một hôm khi đi dự lễ tại nhà thờ Huyện-sĩ, con tình cờ trông thấy vị hôn phu của con mà anh ta lại không nhìn thấy con. Lễ xong con đi theo anh ta về tới tận nhà mới biết anh đang sống chung với một người vợ và có một đứa con. Con đã té xỉu khi biết rõ sự việc! Rồi con buồn bã đi lang thang không biết phải đi đâu và làm gì ?… Về nhà thì xấu hổ với mọi người, lại sợ bị cha sở và cha mẹ quở mắng.

Sống lây lất ở Sài-gòn được bốn tháng trong tình trạng không còn tiền, bị thất nghiệp và thất tình, một hôm con đã được người bạn giới thiệu xin việc làm ở vùng Chợ Lớn. Tại đây, bị cơn mưa lớn, con vào trú mưa trong một ngôi chùa. Mưa kéo dài mãi tới tối, con đành xin ngủ đêm tại chùa. Sư trụ trì chùa thương hại cho con ăn cơm thêm bốn năm ngày liền. Một hôm nhà sư đề nghị nếu con muốn tu chùa, sẽ giới thiệu ra ngoài Huế. Không hiểu tại sao con lại đồng ý và nhà sư đã viết giấy giới thiệu và còn cho tiền lộ phí nữa.

Ra Huế, tu được 20 năm, con đã được nhận giấy chứng chỉ của Vua Bảo Đại, công nhận là bậc chân tu. Con được lệnh vô Sài-gòn để thành lập một ngôi chùa sư nữ, vì trong miền Nam bấy giờ chưa có chùa cho nữ giới. Nhưng khi vào đến đây được ít lâu, con đã mắc phải bệnh lao phải nằm nhà thương, đến nay là sáu tháng. Mỗi lần con trông thấy cha vào thăm bệnh đi qua giường con, con muốn nói với cha mà không sao mở miệng, nên chỉ biết cúi đầu chào cha. Hôm bệnh trở nặng bị thổ huyết, con mới đánh bạo nói thật với bà phước, để nhờ bà mời cha đến…”

Bà sư sống thêm được hai tuần lễ nữa rồi qua đời sau khi đã được hoàn toàn quay về làm con cái Thiên Chúa. Khi bà vừa tắt thở thì một điều rắc rối đã xảy ra: một vị sư thày đã đến trách cha sở cướp người nhà chùa của họ. Sư thầy nói: “Bao nhiêu người khác sao cha không dụ theo đạo mà lại dụ dỗ người nhà chùa của chúng tôi?”. Cha cố gắng giải thích thế nào thì sư thày cũng không chấp nhận. Ông không tin sư bà trước kia là người Công giáo. Sau cùng cha đành đồng ý để bên nhà chùa cử hành lễ nghi an táng theo Phật Giáo. Nhưng rồi hai tiếng đồng hồ sau, nhà sư đột nhiên thay đổi ý kiến. Ông đến gặp cha và nói như sau: “Chúng tôi xin nhường việc an táng bà này cho bên Công giáo”. Rồi nhà sư giải thích lý do: “Vì khi thay xiêm áo cho bà, chúng tôi đã tìm thấy trong bóp của bà một bản di chúc nói rõ tên thật, tên cha mẹ, quê quán và yêu cầu nhà chùa nhắn tin cho cha mẹ của bà biết là bà đã được chịu các phép bí tích công giáo trước khi chết. Bà còn nói rõ ý muốn: “Tôi muốn được chôn cất theo nghi lễ Công giáo”. Vì thế chúng tôi xin nhường lại cho bên Công giáo cử hành nghi lễ an táng cho bà và chỉ xin được tiễn đưa bà tới nơi mộ phần thôi. Đám tang của sư bà hôm ấy có rất đông sư sãi đi tiễn đưa và chỉ có một linh mục là cha sở Nhà thờ Ngã sáu. Sau lễ an táng, bà phước đã trao cho cha cái bóp của sư bà, trong đó có một mẫu ảnh áo Đức Bà Núi Carmêlô. Có lẽ nhờ có lòng mến Đức Mẹ nên cuối cùng sư bà đã được Mẹ cầu bầu để sống lại trong ơn nghĩa Chúa vào giờ sau hết.

(Viết theo “Những Trang Sử Đẫm Mồ Hôi Của Họ Chợ Lớn”-  VN, tr. 94-100)

3.THẢO LUẬN: 1) Bạn có cảm nghĩ gì sau khi biết được câu chuyện của sư bà nói trên? 2) Theo bạn khi mừng lễ Phục Sinh hằng năm, để việc mừng lễ có giá trị thực sự, mỗi người tín hữu phải làm gì cho bản thân và giúp đỡ tha nhân chung quanh?

4.SUY NIỆM:

1) Sự sống lại của Chúa đã làm cho các Tông đồ được biến đổi:

Cuộc gặp gỡ với Chúa Phục Sinh đã làm biến đổi cuộc đời của các tông đồ: Nếu trước cuộc Khổ Nạn của Chúa Giê-su, ông Phê-rô đã tỏ ra hèn nhát kém tin khi đã chối Thầy tới ba lần, thì sau khi gặp Chúa Phục Sinh và đón nhận được Thần Khí của Người, ông đã nên can đảm mạnh mẽ, rao giảng về Chúa Ki-tô trước đám đông dân chúng, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước công đường… Trước đây chưa hiểu Lời Chúa, thì nay ông đã thông suốt những Lời Chúa trong Sách Thánh nhờ gặp được Chúa Phục Sinh như ông đã khẳng định: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng… Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tưởng”.

2) Điều kiện để nên con người mới: phải chết đi cho con người cũ:

Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi đã chết, nên chúng ta cũng chỉ có được sự sống mới sau khi đã chết đi cho con người cũ. Đó là chết đi cho những thói hư và tội lỗi của con người cũ nơi ta như lời thánh Phao-lô dạy: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).

Sự sống mới đòi hỏi một sự tự hủy và lột xác: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Cũng vậy, khi phá hủy «cái tôi ích kỷ», thì «cái tôi» ấy sẽ không bị mất đi, nhưng sẽ được chuyển hóa thành một con người mới phong phú, mạnh mẽ hơn gấp bội. Thực tế cho thấy: Ai càng ích kỷ thì sức sống của họ càng nhỏ bé và càng mất đi giá trị và hạnh phúc. Ngược lại, «Ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân sẽ không tìm thấy hạnh phúc và cũng chẳng giúp cho ai có được hạnh phúc. Trái lại, những vị thánh, những người luôn quên mình, vị tha lại là những người luôn sống trong hạnh phúc, mặc dù xem ra bề ngoài các ngài có bị thiệt thòi và chịu khổ cực hơn ai hết.

3) Xin được sống lại thật về phần linh hồn:

Chúa Ki-tô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Ki-tô đã sống lại, cái chết khộng còn là biểu tượng của thất bại và là ngõ cụt, nhưng đã trở thành cánh cửa mở ra hướng về một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đã về trời ngự bên hữu Thiên Chúa để mời gọi chúng ta đi theo Người “qua đau khổ vào trong vinh quang”. Đó là đức tin và là niềm hy vọng của các tín hữu chúng ta.

Mỗi môn đệ Chúa xưa mỗi người đều có một cách thức đón nhận đức tin và biểu lộ đức tin vào mầu nhiệm phục sinh cách khác nhau; nhưng tất cả đều có chung một lòng yêu mến Chúa Giê-su và sẵn sàng làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống quên mình vị tha và sẵn sàng hy sinh ngay cả mạng sống của mình để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.

4) Sống lại thành con người mới luôn quên mình, vị tha, khiêm nhường phục vụ:

Con người mới được thánh Phaolô xác định như sau: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24). Như vậy, trở nên con người mới chính là nên con người nguyên thủy như khi mới được Thiên Chúa tạo dựng, và trước khi phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản tính của “Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Vậy, để có một đời sống mới, con người mới, ta cần quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người tự mãn ích kỷ, khi chỉ biết lo cho bản thân mình… để mặc lấy con người mới là con người vị tha, luôn sống chan hòa yêu thương phục vụ tha nhân. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta cần phải cầu xin ơn Thánh Thần như thánh Phao-lô đã dạy: «Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta có ơn Thánh Thần, chúng ta sẽ được Ngài biến đổi toàn diện: Từ cách suy nghĩ, nói năng đến thái độ và hành động, để trở thành một con người mới thực thụ, giống như các Tông đồ khi xưa sau khi đớn nhận Thánh Thần trong lễ Ngũ tuần. Nhờ đó, mầu nhiệm phục sinh của Đức Giê-su mới thật sự mang lại ích lợi cho cuộc sống đời đời của chúng ta.

 5.LỜI CẦU:

Lạy Chúa Phục Sinh. Xin ban cho con luôn có được sự sống của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ mãi xanh tươi và được đơm bông kết trái. Xin ban cho con luôn có sự bình an của Chúa, nhờ đó con sẽ vững tâm theo Chúa giữa bao sóng gió đường đời. Xin ban cho con niềm vui của Chúa, nhờ đó khuôn mặt của con sẽ luôn tươi vui rạng rỡ, sẵn sàng tỏ ra thân thiện và đi bước trước đến kết bạn với tha nhân. Xin ban cho con niềm tin và niềm hy vọng của Chúa, nhờ đó con sẽ hăng hái lên đường chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng, không quản ngại những khó khăn gian khổ. Và nhất là: Lạy Chúa, xin ban cho con đầy tràn Thần Khí của Chúa, nhờ đó cuộc đời của con sẽ luôn được đổi mới nên tốt lành thánh thiện và giới thiệu Chúa đến cho mọi người.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. – đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

LM ĐAN VINH – HHTM

 

 

 

Xem thêm

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH

THÁNH GIUSE VÀ CÂU CHUYỆN GIÁNG SINH

Có vô số người, vương cung thánh đường, nhà thờ, đền thánh, chủng viện, tu …