Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá, năm C, của Trầm Thiên Thu

Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá, năm C, của Trầm Thiên Thu

ĐỨC VUA ĐA KHÔNG

h4_resizeHoàng đế (Hán tự: 皇帝 – Anh ngữ: Emperor – La ngữ: Imperator) là tước vị cao của Vua, thường là người cai trị của một đế chế hoặc loại khác của vương quốc, đế quốc. Nói chung, Hoàng đế là người được công nhận có danh dự và xếp hạng cao hơn so với quốc vương.

Vua thì có ngai, gọi là bệ rồng. Quần thần không được “đụng chạm” tới Vua, có tâu cũng chỉ được tâu cái bệ có cái ngai của Vua ngồi: “Muôn tâu bệ hạ”. Ngước nhìn long nhan nhà vua là phạm tội “khi quân”, xử tử ngay!

Vua nào cũng có tiền hô hậu ủng, có tất cả mọi tứ, kể cả quyền sinh tử: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”. Chỉ có Đức Giêsu Kitô là vị Vua cao cả nhất, Vua của các vua, là Thiên Vương, là Chúa của các chúa, thế mà lại có một số KHÔNG to lớn và tròn trịa: KHÔNG đăng quang, KHÔNG ngai vàng, KHÔNG bệ rồng, KHÔNG long bào, KHÔNG bảo kiếm,… chỉ có đám dân đen tôn Ngài làm Vua, cái mà chúng ta gọi là “ngai vua” đối với Ngài là chính “ngai khổ” Thập Giá. Và Ngài được dân chúng reo hò chúc tụng là “Con Vua Đa-vít, Đấng nhân danh Chúa mà đến” chỉ trong chốc lát mà thôi. Rồi người ta mau chóng lật mặt như trở bàn tay!

Ngay trong khi dân chúng tôn vinh Ngài, cả bốn Phúc Âm đều nói rõ rằng lòng kính trọng Chúa Giêsu khi Ngài vào Thành Giêrusalem được thể hiện nhưng không phải tất cả đều là cư dân Giêrusalem. Thánh Mát-thêu cho biết: “Khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ‘Ông này là ai vậy?’. Dân chúng trả lời: ‘Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy” (Mt 21:10-11).

Chúa Nhật Lễ Lá là lúc giờ G đã điểm, khởi đầu hành trình khổ nạn của Đức Kitô từ lúc vào Thành Thánh Giêrusalem. Dân chúng thấy Chúa Giêsu làm nhiều thứ quá tuyệt vời, quá kỳ diệu, vượt ngoài sức tưởng tượng của loài người, thế nên họ muốn tôn Ngài làm vua, chính họ cũng đã nhận biết Ngài là ai, họ lũ lượt theo nhau và reo hò vang dội: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9).

Cây càng cao, gió càng lay. Càng làm lớn càng khổ. Khổ từ khi đăng quang và vinh quy bái tổ. Vua chúa, hoàng đế hoặc quốc vương nào cũng có lễ đăng quang. Ngay cả giáo hoàng cũng có lễ đăng quang.

Người ta thường nói: “Khổ ải trần gian” hoặc “Đời là bể khổ”. Vâng, “biển khổ” chứ không phải “sông khổ” hoặc “ao khổ”. Điều đó cho thấy kiếp người không ngừng nối tiếp đau khổ, là một hành trình đau khổ triền miên. Có lẽ do vậy mà khi sinh ra không ai cười, ai cũng “cất tiếng khóc chào đời”. Biết chấp nhận thì có thể “hóa giải” đau khổ thành niềm vui, nếu không thì càng chồng chất thêm đau khổ mà thôi.

Hơn 2000 năm trước, Thích Ca Mâu Ni là người sống trong cung vàng điện ngọc, nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi nhìn thấy những cảnh khổ của kiếp người, thế nên ông quyết ngồi thiền dưới gốc bồ đề để tu thân và “tâm niệm” Tứ Diệu Đế: Sinh là khổ, Bệnh là khổ, Lão là khổ, và Khổ là khổ. Ông đã siêu thoát và được người ta tôn vinh là Đức Phật. Muốn thoát đau khổ không gì hơn là đi xuyên qua đau khổ. Chúa Giêsu cưỡi lừa vào thành Giêrusalem, được người ta tung hô khi tay họ cầm lá thiên tuế chào đón. Nhưng đó cũng là lúc Ngài khởi đầu “hành trình đau khổ”.

NGƯỜI TÔI TỚ ĐAU KHỔ

Ngôn sứ Isaia nhiều lần tiên báo về “người tôi tớ đau khổ”. Ông cảm thấy Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho ông nói năng như một người môn đệ, để ông biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Ông xác nhận: “Sáng sáng Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ” (Is 50:4). Ông cho biết thêm: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5).

Ngôn sứ Isaia “không cưỡng lại” và “không thoái lui” dù ông phải “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc, phỉ nhổ” (Is 50:6). Ông tin mình “có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ”, vì thế, ông “không hổ thẹn” mà cứ “trơ mặt ra như đá”. Thế nên ông biết mình sẽ “không phải thẹn thùng” (Is 50:7). Ông là hình ảnh của Đức Kitô, con người của đau khổ, khởi đầu “hành trình đau khổ” từ Giêrusalem, ngay khi được người ta cầm những cành thiên tuế tung hô là vua.

Tác giả Thánh vịnh mô tả về tình trạng chịu nhục nhã ê chề:

Thấy con ai cũng chê cười

Lắc đầu, bĩu mỏ, buông lời mỉa mai:

“Nó trông cậy Đức Chúa Trời

Cứ để mặc Người giải cứu nó đi!” (Tv 22:8-9)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ không chỉ bị khiêu khích, bị đau khổ về tinh thần mà còn bị đau khổ về thể lý:

Quanh con bầy chó bao chặt chẽ

Bọn ác nhân vây bủa trong ngoài

Chúng đâm con thủng chân tay

Xương con đếm được vắn dài, chúng xem (Tv 22:17-18)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ bị đau khổ đến tận cùng, nhưng vẫn luôn trông cậy vào Thiên Chúa:

Áo mặc ngoài chúng đem chia chác

Còn áo trong cũng bắt thăm luôn

Chúa là sức mạnh con nương

Cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa! (Tv 22:19-20)

Đồng thời vẫn muốn tôn vinh Thiên Chúa trong chính những đau khổ của mình:

Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa

Cho anh em tất cả được hay

Và trong đại hội dân Ngài

Con xin dâng tiến một bài tán dương (Tv 22:23)

Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ luôn trung tín với Thiên Chúa, tự động viên mình và khuyến khích người khác: “Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Gia-cóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Ítraen tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:24).

NGƯỜI CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ

Thánh Phaolô vừa phân tích vừa xác định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Pl 2:6). Đạo cũng như đời, người quyền cao chức trọng có mấy ai dám “vi hành” để hiểu rõ cảnh khổ của người dân?

Trong tác phẩm “Authority: Its Use and Abuse” (*) có kể một số “điểm son” của Đức cố GM Irumpen, GP Palakkad (Ấn Độ), một giám-mục-đa-không, đáng để chúng ta noi gương:

Mỗi Chúa Nhật, ngài đến một giáo xứ nào đó mà không báo trước, ngồi tòa giải tội khoảng 15-20 phút, dâng lễ, giảng lễ, dạy giáo lý, và chuyện trò với giáo dân và linh mục quản xứ; ngài không bao giờ cho phép người ta tổ chức tiếp tân chào mừng ngài tại các giáo xứ. Và tại tòa giám mục hay ở bất cứ nơi đâu mà ngài ghé thăm, ngài không nhận bất cứ sự biệt đãi nào dành cho mình; ngài cho rằng sự hào nhoáng bên ngoài (kiểu như đoàn xe đưa rước trong những dịp đặc biệt) không phải là chứng nhân Tin Mừng mà là chứng nhân của văn hóa thế tục; hằng ngày ngài dành thời gian từ 9 giờ đến 12 giờ để tiếp bất cứ ai đến gặp, không cần hẹn trước; ngài không bao giờ nghỉ trưa; ngài chỉ dự những lễ kỷ niệm chịu chức hay khấn dòng nếu những lễ ấy tổ chức ở nhà thờ chính tòa; ngài không tổ chức mừng ngày kỷ niệm thụ phong giám mục của mình. Năm nào ngài cũng mừng lễ bổn mạng, dịp các linh mục tĩnh tâm tháng vào ngày 19-3 (Lễ Đức Thánh Giuse Phu Quân Đức Maria). Linh mục đoàn cùng nâng cốc chúc mừng và nhâm nhi chút bánh ngọt; ngài không đưa lên bảng thông tin giáo phận các tin về hoạt động hay đi lại của ngài trong giáo phận, mà chỉ thông tin cho mọi người biết trước về những trường hợp ngài phải ra ngoài giáo phận quá một ngày, chẳng hạn khi ngài sắp đi dự họp Hội Đồng Giám Mục,…; ngài không bao giờ đi nước ngoài, trừ phi đó là bổn phận bắt buộc như về Rôma dịp Ad limina. Ngài không bao giờ đi nước ngoài để quyên tiền. Ngài nói rằng các nhu cầu căn bản của giáo phận cần phải được gánh vác bởi chính giáo dân trong giáo phận; không bao giờ có chuyện “phạt treo”, chẳng hạn không cấp giấy chứng chỉ hôn phối vì người ta chưa đóng góp quĩ; ngài luôn ăn mặc giản dị, ăn chay trường, và chẳng ai thấy hình ảnh của ngài trên báo chí; ngài hưu trí tại nhà hưu của các linh mục cao niên. Cuộc đời ngài thật đơn giản, tất cả đồ đạc xếp gọn trong một chuyến xe nhỏ; giáo phận tặng ngài một ô tô dịp ngài về hưu, nhưng ngài không nhận, chỉ muốn được trợ cấp hưu bổng đúng theo mức hưu dưỡng như các linh mục khác trong giáo phận; ngài không muốn xin viện trợ từ bên ngoài để xây các nhà thờ to lớn. Nếu ai dâng hiến đất, ngài sẽ xây một nhà thờ vừa phải với sự hỗ trợ của chính các giáo dân địa phương; văn phòng của ngài là một gian phòng nhỏ trong một ngôi nhà cũ kỹ, không có bất cứ món trang trí nào; ngài là một chứng nhân Tin Mừng, sống điều ngài rao giảng, cách sống của ngài cho thấy rõ quyền bính là để phục vụ.

Tại Việt Nam có gương sáng của Đức cố GM Cassaigne (người Pháp, quen gọi cha Sanh, nguyên giám mục GP Saigon), vị tông đồ của người cùi. Khi còn là giám mục Saigon, ngài cũng đã từng rong ruổi khắp khu dân cư nghèo để thấy rõ thực tế, cửa tòa giám mục cũng luôn rộng mở đón tiếp mọi người.

Những chứng nhân như vậy thật đáng khâm phục vì đúng là những mục tử của Chúa, dám quên mình vì đoàn chiên, là những chủ chăn đích thực và sống động, chứ không nói suông qua các văn bản hoặc bài giảng.

Chúa Giêsu không chỉ là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ mà còn là Người-Tôi-Tớ-Đau-Khổ-Khiêm-Nhường: “Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:7). Cái chết của Ngài khác thường là “chết trên thập giá”, loại khổ hình nhục nhã nhất thời đó. Chính vì Ngài chịu đau khổ đến tột cùng mà “Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9), danh hiệu ấy cao cả và quyền năng đến nỗi “khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ” (Pl 2:10). Để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2:11).

Trong cuộc sống, không ai muốn đau khổ, nghĩa là ai cũng muốn sống sung sướng, muốn tận hưởng niềm hạnh phúc – tận hưởng bằng mọi cách và càng nhiều càng tốt. Vì thế mà con người miệt mài đêm ngày đi tìm hạnh phúc. Đau khổ luôn là điều bí ẩn đối với cuộc sống. Thậm chí những người chấp nhận đau khổ có thể bị coi là “ngu xuẩn”, là “dại dột”, là “điên khùng”. Tuy nhiên, với người tin vào Đức Kitô, đau khổ là một mầu nhiệm.

Bất kỳ ở quốc gia nào, một bị cáo đứng trước vành móng ngựa cũng có luật sư bào chữa. Trong Giáo hội Công giáo, trước khi phong thánh cho ai thì cũng có 2 “phe”, một phe đưa ra các điều tốt và một phe đưa ra các điều xấu – được gọi là “luật sư của quỷ”, phe luật sư này sẽ đưa ra mọi thứ “bất lợi” cho ứng viên đến khi “chịu thua” mới thôi. Chẳng hạn trường hợp của Thánh GH Gioan XXIII, luật-sư-của-quỷ đã hết cách nên đành “tố cáo” Gioan XXIII hồi nhỏ hay chơi diều.

Từ cổ chí kim, chỉ có một tử tội đặc biệt không có luật sư bào chữa, cũng chẳng có ai bênh vực một lời nào, đó là Đức Giêsu Kitô. Người ta vừa tôn làm vua xong đã vội lật mặt và đòi đóng đinh vào Thập giá, đến cả những người thân cận nhất cũng sợ liên lụy mà bỏ rơi Đại Sư của mình, người mà mình leo lẻo tán dương lên tận mây xanh!

ĐIỂM BÁO GIỜ G

Bài Thương Khó hôm nay là một bộ phim dài, một tấn bi kịch đẫm lệ sầu, một cuộc chia ly đầy nước mắt.

Giờ G đã điểm, Đức Giêsu vào bàn cùng với các Tông Đồ. Người nói: “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22:15). Ngài đưa ra lý do: “Thầy sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa” (Lc 22:16).

Sau đó, Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể, Ngài dùng chính Mình Máu Ngài để nuôi sống chúng ta. Ngài tiên báo mọi chuyện sắp xảy ra như những lời trăng trối, và để cảnh báo mọi người. Rồi Ngài phân tích về cách cai trị: “Vua các dân thì dùng uy mà thống trị dân, và những ai cầm quyền thì tự xưng là ân nhân. Nhưng anh em thì không phải như thế, trái lại, ai lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ. Bởi lẽ, giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ. Còn anh em, anh em vẫn một lòng gắn bó với Thầy, giữa những lúc Thầy gặp thử thách gian nan. Vì thế, Thầy sẽ trao Vương Quốc cho anh em, như Cha Thầy đã trao cho Thầy, để anh em được đồng bàn ăn uống với Thầy trong Vương Quốc của Thầy, và ngự toà xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en” (Lc 22:25-30).

Đặc biệt là Ngài cảnh báo về sự dữ đối với Phêrô: “Simon, Simon ơi, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22:31-32). Chúa Giêsu thân thiện gọi ông là Simon, gọi tên thật chứ không gọi “nickname” Phêrô, triều đại giáo hoàng đệ nhất.

Ông Phêrô thưa với Người: “Lạy Chúa, dầu có phải vào tù hay phải chết với Chúa đi nữa, con cũng sẵn sàng” (Lc 22:33). Đức Giêsu nói ngay: “Này anh Phêrô, Thầy bảo cho anh biết, hôm nay gà chưa kịp gáy, thì đã ba lần anh chối là không biết Thầy” (Lc 22:34). Tính nóng như lửa, thế mà Phêrô cũng chỉ biết gãi đầu và im lặng, chả nói được gì. Nói ngon lắm, nhưng rồi không phải thế. NÓI và LÀM là hai việc khác nhau, có một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa!

Biết mình không còn bao lâu nữa sẽ xa rời người thân, nên Ngài rất quan tâm: “Anh em có thiếu thốn gì không?” (Lc 22:35). Các ông trả lời “không”. Các ông tưởng sắp có chiến tranh và đổ máu nên cùng nói: “Lạy Chúa, đã có hai thanh gươm đây” (Lc 22:38a). Nhưng Chúa Giêsu bảo họ: “Đủ rồi!” (Lc 22:38b).

Sau đó Ngài đi ra núi Ô-liu như đã quen. Các môn đệ lẽo đẽo theo Ngài. Đến nơi, Ngài bảo: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:40). Cầu nguyện là điều cần thiết lắm, thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Ngài đi xa các ông một quãng, rồi quỳ gối cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha” (Lc 22:42). Lúc này Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Chúa Giêsu vừa lo vừa sợ, vừa buồn vừa cô đơn, đến nỗi mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất (Lc 22:44).

Cầu nguyện xong, Ngài quay lại chỗ các môn đệ, nhưng các ông đang ngủ ngon lành. Ngài nói: “Sao anh em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ” (Lc 22:46). Lần thứ hai Chúa nhắc các ông cầu nguyện, Ngài xác định việc cầu nguyện vô cùng cần thiết, mọi nơi và mọi lúc.

Ngay lúc đó, Giuđa lại gần Đức Giêsu để hôn Ngài, và để chỉ điểm cho bọn thủ ác đến vây bắt Ngài. Chúa Giêsu ôn tồn: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22:48). Lời nói nhẹ mà đau thấm thía. Ngày nay, chúng ta cũng vẫn dùng “dấu tốt” để bán Chúa, để mưu hại tha nhân, để làm những điều phi nhân nghĩa.

Người ta muốn dùng gươm giáo để chiến đấu, chính Phêrô đã nhanh như chớp, tuốt gươm chém ngay, nhưng có lẽ ông run tay nên chỉ đứt tai một tên lính chứ nếu ngon lành thì ông cho nó đầu lìa khỏi cổ rồi. Phêrô còn nhát tay lắm! Thấy vậy, Đức Giêsu lên tiếng: “Thôi, ngừng lại” (Lc 22:51). Và Ngài gắn lại liền tai cho khổ chủ. Phép lạ nhãn tiền thế mà bọn thủ ác vẫn lì lợm, vẫn cứng lòng, vẫn cố chấp!

Chúa Giêsu bị chúng dẫn đi, khi đi ngang qua Phêrô, Ngài nhìn ông với ánh mắt sâu thẳm, vừa buồn trách vừa xót thương, ông giật mình vì ông vừa chối Thầy đúng như lời Thầy nói trước. Tiếng gà gáy xoáy sâu vào lòng ông khiến ông vừa xấu hổ vừa ăn năn, ông chạy ra ngoài và bật khóc, khóc như con trẻ, khóc như chưa bao giờ khóc, tiếng khóc rất thảm thiết (Lc 22:62).

Bọn thủ ác bịt mắt Ngài lại, thốt ra nhiều lời khác xúc phạm đến Ngài, và hành hạ Ngài đủ kiểu, thâu đêm suốt sáng, không chút tiếc xót. Khi trời sáng, mọi người đều nói: “Vậy ông là Con Thiên Chúa sao?” (Lc 22:70a). Ngài thản nhiên: “Đúng như các ông nói, chính tôi đây!” (Lc 22:70b). Họ liền vào hùa: “Chúng ta cần gì lời chứng nữa? Chính chúng ta vừa nghe miệng hắn nói!” (Lc 22:71).

Sau đó, họ bắt đầu tố cáo Chúa Giêsu đủ thứ, từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn, cái gì cũng hóa thành trọng tội, dù là việc làm tốt. Tâm địa kẻ ác là vậy!

Philatô nhát gan vì sợ mất chức quyền, không dám hành động theo lương tâm, rửa tay để chứng tỏ mình chí công vô tư. Ông ta muốn cho đánh đòn Chúa Giêsu rồi thả ra, nhưng dân chúng không chịu, họ đồng thanh la ó: “Giết nó đi, thả Baraba cho chúng tôi!” (Lc 23:18). Baraba đã bị tống ngục vì một vụ bạo động đã xảy ra trong thành, và vì tội giết người. Họ coi Chúa Giêsu không bằng một tên tử tội tàn ác khét tiếng. Thấy dân chúng nhất quyết xin tha Baraba mà giết Chúa Giêsu, Philatô đành chiều theo ý họ. Thật đê tiện!

Con đường từ dinh Philatô tới Đồi Can-vê quanh co, đồi dốc và lởm chởm. Chúa Giêsu phải tự vác Thập giá mà đi, biết bao vất vả, sức yếu dần vì bị đòn roi với đủ nhục hình và còn bị đói khát, Ngài đã ngã xuống 3 lần vì sức nặng của Thập giá. Chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi!

Đến Đồi Sọ, họ đóng đinh Ngài vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Chịu đủ loại nhục hình, từ lời nhục mạ tới hành động đóng đinh, loại tử hình nặng nhất thời đó, và dù đang bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu vẫn đại lượng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34). Kể từ xưa tới nay, và đến mãi về sau, chắn chắn không thể có sự tha thứ nào lớn hơn nữa!

Ngay cả tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài, với chỉ một lời “xin nhớ tới hắn” thôi, thế mà Ngài liền cho hắn đồng hành vào Thiên quốc, và trở thành vị thánh đầu tiên của Tân Ước. Hạnh phúc thay cho Dismas!

Cái chết là kết thúc cuộc sống trần gian, trút hơi thở cuối cùng là ranh giới giữa sự sống và sự chết. Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23:46). Nói xong, Ngài tắt thở!

Thấy sự việc xảy ra nhãn tiền, viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này đích thực là người công chính!” (Lc 23:47), và toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm ngực trở về (Lc 23:48). Đó là những biểu hiện sám hối, họ còn may mắn và kịp nhận ra tội mình – không trực tiếp thì cũng gián tiếp giết chết người vô tội, làm khổ tha nhân, sát hại Đức Kitô.

Không có nỗi đau khổ nào bằng nỗi khổ của Chúa Giêsu. Được tôn làm vua mà không có ngai vàng, không được đăng quang, thay vào đó lại là nhục hình Thập giá!

Lạy Chúa, chúng con thành tâm sám hối và xin lỗi Chúa, xin thương xót và tha thứ. Xin cảm tạ Chúa Cha đã ban Đấng Cứu Thế cho chúng con. Chúng con thật may mắn và hạnh phúc vì được tận hưởng Lòng Thương Xót vô biên nhờ cái chết của Đức Kitô, dù chính chúng con đã nhẫn tâm trực tiếp hoặc đồng lõa sát hại Con Thiên Chúa. Xin ban Thánh Thần giúp chúng con can đảm sống xứng đáng với Ơn Cứu Độ, kiên trì đi trọn hành trình đau khổ và làm chứng nhân của Lòng Chúa Thương Xót, để chúng con cũng được cùng phục sinh với Chúa Con. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

(*) Authority: Its Use and Abuse (Sử Dụng và Lạm Dụng Quyền Bính), sách của LM C.P. Varkey (NXB The Bombay Saint Paul Society, 1999).

Xem thêm

T2t31TN

Suy niệm Tin Mừng Thứ Hai Tuần XXXI Thường Niên, Năm Chẵn, của Lm Minh Anh

  VĂN HOÁ CHO ĐI “Ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành …