Home / Suy Niệm Lời Chúa / SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH, NĂM A, CỦA TRẦM THIÊN THU

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ CHÚA HIỂN LINH, NĂM A, CỦA TRẦM THIÊN THU

TÌM THIÊN TỬ

1-1-2017-10-21-25-pmCuộc đời con người là một cuộc tìm kiếm không ngừng. Có nhiều thứ để tìm kiếm, chung quy lại chỉ là để mình cảm thấy hạnh phúc, thế nhưng có thể cả đời không tìm thấy, hoặc thấy loại này rồi lại tìm loại khác. Chắc hẳn các đạo sĩ cũng không ngoài mục đích đó, nhưng họ đã đạt được mục đích, và hạnh phúc của họ có thật, nhãn tiền: gặp được chính Đấng Cứu Thế.

Các chi tiết và các điểm khác biệt từ câu chuyện về ba đạo sĩ được dựa vào Phúc Âm thứ nhất – Tin Mừng theo Thánh sử Matthêu. Qua đó, chúng ta thấy có mấy điểm chính như sau:

– Họ là những người Ba Tư, đến từ vùng đất bán thần thoại Shir (liên quan Trung quốc cổ đại), họ có một cuộc hành trình dài.

– Có hàng chục đạo sĩ chứ không chỉ có ba người, và họ đã viếng thăm Hài Nhi Giêsu. Phúc Âm theo Thánh Matthêu không xác định số người, chỉ đề cập ba người tiến dâng lễ vật cho Hài Nhi Giêsu.

– Ba đạo sĩ được mô tả là hậu duệ của Seth, con trai thứ ba của Nguyên Tổ Adam. Theo quy ước, người ta đồng ý gọi tên của ba đạo sĩ là Balthasar, Gaspar và Melchior.

– Họ thuộc một giáo phái có niềm tin vào việc cầu nguyện thầm lặng. Họ đã chờ đợi rất lâu để có thể nhận thấy Ngôi Sao Lạ xuất hiện, và họ tin đó là dấu hiệu báo về một Thiên Tử.

Như vậy, họ không phải là vua chúa hoặc quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, họ đến từ Đông phương xa lắc xa lơ, miệt mài đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến tận Belem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Lễ này ngày xưa gọi là lễ Ba Vua, ngày nay gọi là lễ Hiển Linh.

Qua Kinh Thánh, chúng ta biết rằng Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, làm người, ở giữa loài người, cùng chia sẻ mọi “nỗi đời” với thân phận phàm nhân của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Thiên Chúa đã sử dụng để tỏ mình ra cho muôn dân. Sự khiêm nhường tột cùng của Ngài dạy chúng ta phải cố gắng sống đơn sơ và giản dị.

Ba đạo sĩ đã kiên nhẫn chờ đợi và miệt mài đi tìm Đấng họ mong đợi – và họ gặp. Họ nhắc nhở chúng ta cũng phải kiên trì và nỗ lực vượt qua mọi gian khó mới có thể gặp được Thiên Chúa. Ngài chính là cùng đích và hạnh phúc đích thực đối với các Kitô hữu.

TÌM THIÊN TỬ

Đi theo ánh sao để làm gì? Tất nhiên là để gặp được chính Thiên Tử. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con, và giờ đây lời hứa đó đã ứng nghiệm: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).

Tất cả chúng ta là phàm nhân, ai cũng là tội nhân, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được chính Con Thiên Chúa đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, “vòng kim cô” của ma quỷ, và được phục hồi quyền làm con cái của Thiên Chúa, vì thế ngôn sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” (Is 60:1-2).

Ôi, thật là diễm phúc biết bao! Tại sao? Bởi vì chúng ta không chỉ được giải thoát khỏi bóng tối tội lỗi và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” (Is 60:4). Và vì thế, chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, mừng như ngày hội và vui như tết.

Thật kỳ diệu, kỳ diệu tới mức nhiệm mầu, bởi vì Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Belem kia lại chính là Thái Tử của Thiên Hoàng, là Tân Vương Nhi. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” (Tv 72:6). Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5:32), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19:9), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” (Ga 10:10). Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu! Tại sao? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” (Is 55:8).

Vương Nhi thuộc vương tộc Đa-vít, nhưng Ngài là Hàn Vương. Tuy nhiên, triều đại của Ngài lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” (Tv 72:7), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” (Tv 72:11). Vương Nhi Giêsu là Vua của các vua, là Chúa của các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, luôn theo sát đồng bào, luôn tận tụy với đám dân nghèo, cương quyết bảo vệ công lý và chân lý – vì theo Ngài, chỉ có sự thật mới khả dĩ giải thoát nhân loại (x. Ga 8:32). Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” (Tv 72:12-13).

Từ Đông phương, các nhà hiền triết đã thấy Ánh Sao Lạ, họ biết ngay rằng có một “dị nhân” vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm trở, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh bốc mùi hôi tanh. Điều kỳ lạ là họ đã tin Trẻ Thơ Giêsu là Đấng họ mong đợi, không hề thắc mắc hoặc nghi ngờ.

Nếu là chúng ta, chưa chắc chúng ta đã muốn bước chân vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho nhanh, thậm chí có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu! Các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”. Còn các đạo sĩ kia, họ vẫn không hề thất vọng, họ liền bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện hoàn toàn có thật. Không chỉ tin và bái phục, họ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo.

Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Giả sử chúng ta tận mắt chứng kiến thì chắc gì chúng ta tin Em Bé Giêsu kia chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Như vậy là chúng ta may mắn lắm. Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” (Ep 3:2-3). Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” (Ep 3:5). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” (Ep 3:5-6).

Và một lần nữa, chúng ta lại thực sự may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, được nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động” một cách cụ thể chứ không nói suông.

THẤY THÁNH TỬ

Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể và nhập thế, tôn danh Ngài là Giêsu Kitô. Ngài là Thiên Vương, do đó Đức Maria trở thành Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là Phụ Vương – mặc dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Chồng không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng lắm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm. Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Hạnh phúc giản dị mà tuyệt vời. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim mang tên “hành tình gian khổ” còn kéo dài nhiều tập…

Kinh Thánh cho biết thời đó đương triều của ác vương Hêrôđê. Ông được mấy nhà chiêm tinh vào hỏi thăm xem Đức Vua của dân Do Thái mới sinh hiện ở nơi nào. Họ còn cho biết rằng họ đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, và họ muốn đến bái lạy Người (Mt 2:1-2).

Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa tam tinh, choáng váng, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi nên liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời chính xác là tại Bêlem, miền Giuđê, và họ dẫn chứng sách ngôn sứ “nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” (Mt 2:6). Vốn thâm độc, vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2:8). Loài quỷ sứ mà mang cánh thiên thần. Giả hình rất tinh vi!

Các đạo sĩ nghe nhà vua nói thế thì an tâm ra đi, vốn dĩ chân thật nên họ không hề biết vua Hêrôđê “khẩu phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” (Mt 2:11). Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

Hang đá Belem lúc đó chắc là rộn rã lắm. Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” – như thế vẫn là tiêu cực, mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân.

Thiên Tử Giêsu không có nghĩa là “con trời” như các ông vua ngày xưa tự xưng hoặc những người mạo nhận (lập giáo phái này nọ…), mà Ngài là Thánh Tử của Thiên Chúa Cha. Có điều chắc chắn rằng bất cứ ai tin vào Ngài sẽ được cứu độ, và bất cứ ai noi gương các đạo sĩ mà thành tâm tha thiết tìm Thiên Tử thì thấy Thánh Tử.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và hằng hữu, xin giúp chúng con luôn thể hiện lòng thành qua cách sống thường nhật, dù bình thường nhưng không tầm thường, không ngừng tìm kiếm Ngài và can đảm hành động vì sự thật. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con sống đúng Tôn Ý Ngài trong từng hơi thở. Lạy Đức Mẹ Maria và Đức Thánh Giuse, xin thương nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Emmanuel, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …