Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin mừng Chúa nhật IV Thường Niên, năm C, của LM Phêrô Phan Văn Lợi

Suy niệm Tin mừng Chúa nhật IV Thường Niên, năm C, của LM Phêrô Phan Văn Lợi

CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN NĂM C

LC 4, 21-30

            lc42130cKhi ấy, tại hội đường Na-da-rét, sau khi đọc sách ngôn sứ I-sai-a, Đức Giê-su bắt đầu nói: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe”. Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra.

            Họ bảo nhau: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?” Người nói với họ: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm ở đây, tại quê ông xem nào!”

            Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: Không một ngôn sứ nào ưu đãi quê hương mình. Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội. thiếu gì bà góa ở trong nước Ít-ra-en; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà góa thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. Cũng vậy, thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi”.

            Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi-. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.  

                       

ƯU ĐÃI QUÊ NHÀ?

            Nhiều nhà chú giải đã nhận thấy có nhiều rời rạc trong đoản văn này, hay ít ra nhiều nhược điểm văn chương “lạ lùng nơi một tác giả cẩn thận như Lu-ca” (Augustin George), khiến người ta giả thiết là ở đây vị thánh sử đã dùng nhiều nguồn liệu mà ông đã không khéo tổng hợp. Những “rời rạc” đó có thể tóm lại trong hai điểm: 1- Bất tương xứng giữa phản ứng đầu tiên của cử tọa (tán thành thán phục) với những lời dữ dội của Đức Giê-su ở cc. 23-27. 2- Thiếu đồng nhất bên trong diễn từ của Đức Giê-su (cc. 23-27): ở c. 23, Đức Giê-su linh cảm đồng hương sắp xin mình làm phép lạ (điều này giả thiết họ đã tin); trái lại nơi c. 24 (“Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”, lối dịch thông thường), xem ra Người phàn nàn là bị bạc đãi. Cuối cùng, câu 24 (theo lối dịch thông thường) cho thấy chính dân Do-thái loại trừ các ngôn sứ, trong khi các câu 25-27 lại bảo chính các ngôn sứ từ chối làm phép lạ tại Ít-ra-en. Thật ra, cảm tưởng “rời rạc” này phát xuất từ việc người ta muốn tìm nơi Lu-ca một lược đồ của Mác-cô (6,1-6), trong lúc Lu-ca lại thay đổi cơ cấu của trình thuật Mc cách sâu đậm, để biến trình thuật này thành một toát yếu biểu tượng về cuộc đời và sứ mạng Đức Giê-su: từ chối dành riêng ơn cứu độ cho quê hương Người!

            1. Đòi hỏi của người đồng hương

            Mở đầu bản văn là câu kết luận bài giảng đầu tiên của Đức Giê-su trong hội đường Na-da-rét, quê hương của Người (xin xem lại bài Tin Mừng CN tuần trước). Qua bài đọc ngôn sứ I-sai-a (61,1-2), Đức Giê-su muốn đưa ra cương lĩnh hành động của mình: loan Tin Mừng cho kẻ nghèo, giải thoát những ai bị giam cầm áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa! Rõ ràng là sứ điệp về ơn cứu độ phổ cập. Và Đức Giê-su chú giải lời ngôn sứ như sau: “Hôm nay đã ứng nghiệm tất cả những điều ấy”. Người quả quyết bản thân mình thỏa mãn lòng mong đợi của Ít-ra-en. Rút lời Kinh Thánh khỏi quá khứ, nơi ta luôn có khuynh hướng xếp xó nó vào, Đức Giê-su nhắc ta nhớ rằng cùng với chương trình của mình, Người đang xâm nhập cuộc sống thường nhật hiện tại của chúng ta!

            Cử tọa đã phản ứng rất thuận lợi: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra”. Chẳng những thế, họ còn kháo láo với nhau: “Ông này chẳng phải là con ông Giu-se đó sao?” Đây có thể hiểu như một lời mai mỉa (như nơi Mc), nhưng trong bối cảnh này, nó là một sự xác nhận đầy thích thú, che giấu một tính toán vụ lợi: “Ông ấy là thân thuộc chúng ta, là con cháu trong họ trong làng”. Bởi thế Đức Giê-su bèn phán: “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình”. Có kẻ cho rằng câu này tương tự kiểu nói: “Chớ lên mặt dạy đời, ông có hay ho gì! Hãy tự răn mình trước đã!” Trong trường hợp đang xét, nó thật ra có nghĩa: “Nhà thần thông ơi, hãy cho thân nhân của ông được hưởng các phép mầu của ông trước khi cho người xa lạ hưởng” (như ta hay nói hiện thời: bác sĩ bao giờ cũng chữa người nhà trước, dành thuốc tốt cho vợ cho con!) Ở đây, nghĩa câu tục ngữ đúng là như thế, vì Đức Giê-su khi giải thích tư tưởng cử tọa, đã lập tức áp dụng câu đó cho mình: “Các ông đòi hỏi tôi làm ở đây các phép lạ tôi đã làm ở Ca-phác-na-um, chỉ vì các ông là đồng hương với tôi. Nhưng tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào…”

            2. Thái độ của nhà ngôn sứ

            Cho tới nay, đa phần các bản dịch viết: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Cụm từ “được chấp nhận” viết là “dektos” trong tiếng Hy-lạp. Từ này thường mang ý nghĩa thụ động (được tiếp nhận, được ưu ái, được hoan nghênh, được trọng đãi, x. Cv 10,35; Pl 4,18) nhưng cũng có khi mang nghĩa chủ động (ưu đãi, sủng mộ, thuận lợi, thương đoái: x. Xh 28,38; Đnl 33,16.23; G 33,26; Is 49,8 được trích dẫn ở 2Cr 6,2; Is 61,2 được trích dẫn ở Lc 4,19). Muốn cho mạch lạc với phần trước cũng như với phần sau, nơi Đức Giê-su trích dẫn hai ví dụ minh họa trong Cựu Ước và sự chuyển biến tình cảm của đồng hương Người, thiết tưởng ta phải theo nghĩa chủ động của từ dektos mà dịch c. 24 như sau: “Không một ngôn sứ nào ưu đãi quê hương mình”. Ngay trong câu 19 là câu trích dẫn Is 61,2: “công bố một năm thương đoái (Nguyễn Thế Thuấn) –một năm tiếp nhận (TOB)- của Chúa”, Lu-ca đã muốn hiểu từ dektos theo nghĩa chủ động rồi.

            Có như thế, tương quan của câu 24 với văn mạch mới được sáng tỏ: nó đối nghịch với câu 23 (Đức Giê-su từ chối lời xin làm phép lạ) và được kéo dài trong cc. 25-27 nhờ hai ví dụ Cựu Ước. Qua câu chủ chốt ấy, Đức Giê-su nói rõ là Người không muốn giới hạn sứ mệnh của mình trong làng mạc hay trong đất nước Người: như Ê-li-a và Ê-li-sa đã không ưu đãi dân Ít-ra-en, thì Giê-su đây cũng chẳng ưu đãi quê hương mình. Một dư âm của bài huấn dụ này hình như còn sót lại ở Lc 4,42-43, nơi dân chúng Ca-phác-na-um muốn bắt Đức Giê-su ở lại với họ. Để trả lời, Người cũng lấy lại gần nguyên văn câu trích dẫn I-sai-a mà Người đã giải thích trong hội đường Na-da-rét: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Ở đây, thái độ của Đức Giê-su cũng in hệt: không muốn ai độc quyền chiếm hữu Người. Tất cả chỉ là vấn đề đức tin và dự kiện tâm hồn xứng hợp. Con người chẳng có danh nghĩa gì để được hưởng các ân huệ của Thiên Chúa. Không phải những liên hệ máu mủ, cùng gốc gác có thể làm nên một cơ sở nào đó giúp người ta đòi hỏi ơn cứu độ của Đấng Mê-si-a. Vì hơn mọi hồng ân khác của Thiên Chúa, đây là ân sủng tặng không hoàn toàn và dành cho mọi người hết thảy.

            Mà đây cũng chính là viễn tượng của Lu-ca, vị thánh sử viết Tin Mừng cho lương dân và luôn nhắm trình bày ơn rỗi phổ quát. Là môn đệ Phao-lô, tông đồ dân ngoại, Lu-ca thường nhấn mạnh đến các hồng ân Thiên Chúa ban cho những người ngoài Do-thái. Sự cố Na-da-rét mặc dáng vẻ một luận đề thần học: ơn cứu độ chẳng dành cho một số người ưu đãi. Không có Đất thánh, chẳng có Tuyển dân nếu hiểu các thành ngữ Kinh Thánh này như có tính độc quyền… như thể mọi mảnh đất khác ngoài Pa-lét-ti-na đều là trần tục, như thể mọi dân tộc khác ngoài Ít-ra-en đều bị loại khỏi Giao ước. Ở đây ta nhớ có một truyện cổ của dân Do-thái kể rằng: Sau khi chứng kiến phép lạ “vượt qua Biển đỏ”, thấy xác người Ai-cập trôi dạt vào bờ, Mô-sê và toàn dân Ít-ra-en hí hửng hát ca vì say men chiến thắng (x. Xh 15). Chính lúc ấy, Thiên Chúa hiện ra với ông mà bảo: “Thôi đủ rồi! Không khéo ngươi làm cho thiên hạ tưởng Ta chỉ là Chúa của dân ngươi và hoàn toàn phù trợ các ngươi bằng cách tiêu diệt mọi kẻ khác. Người Ai-cập chẳng phải là con cái của Ta sao? Ta đã chẳng dựng nên họ đấy à?” Thiên Chúa đâu có biên giới! Người còn rộng rãi và lớn lao hơn các chân trời cá nhân nhỏ bé của ta! Chớ nhốt kín con bác Giu-se trong cái “xó” Na-da-rét của Người. Thiên Chúa còn lớn lao hơn Giáo Hội hữu hình của Người nữa. Các phi-Ki-tô hữu chẳng ở ngoài ân sủng Thiên Chúa. Thành thử đây là một lời cảnh giác cho tất cả những ai tưởng mình “quen thuộc” các chuyện đạo, tưởng mình ăn chắc nhờ thường xuyên lãnh nhận bí tích, nhờ hưởng một nền giáo dục Ki-tô giáo đầy đủ: “Quân thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).

            Chẳng lạ gì mà một thái độ như thế của Đức Giê-su đã tạo nên sự biến chuyển tình cảm nơi đồng hương của Người: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành -thành này được xây trên núi-. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”. Đây là lời loan báo số phận cuối cùng của Đức Giê-su, bị giết “ngoài thành” (Lc 20,15; Cv 7,57). Nhưng ta sẽ lầm to nếu vội tưởng rằng mình bên phía phải và chẳng dính dáng gì tới thái độ của đồng hương Đức Giê-su. Chúng ta rất thường loại Người khỏi các quyết định, các gia đình, các nghề nghiệp của chúng ta. Chúa ơi, Ngài chẳng liên quan gì tới với chúng tôi cả. Hỡi nhà ngôn sứ, đi chỗ khác mà thuyết giáo!

            Song các từ chối của tôi không thể ngăn cản Thiên Chúa tiếp tục chương trình của Người với kẻ khác. Giữa những thăng trầm của lịch sử, giữa sự từ chối của nhân thế, Đức Giê-su vẫn tiếp tục con đường mình: “Người băng qua giữa họ mà đi”.

      Lm Phê-rô Phan Văn Lợi, TGP Huế

                       

Xem thêm

Ga 18,33-37

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN- LỄ KITÔ VUA, NĂM B, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CN 34BB LỄ KITÔ VUA (Ga 18,33-37) I.TÀI LỆU GỢI Ý             Ngữ cảnh Trong đêm, …