MÙ TÂM LINH
Khiếm thị không chỉ gây “bất tiện” mà còn có thể liên quan các bệnh khác như chậm phát triển tinh thần, rối loạn tự kỷ, bại não, suy giảm thích giác, và động kinh. Theo WHO, khiếm thị được định nghĩa là khi thị lực của một người dưới mức 20/500 hoặc thị trường nhỏ hơn 10 độ. Định nghĩa này được đưa ra năm 1972, và vẫn còn được thảo luận xem nó có nên được thay đổi một chút hay không.
Chỉ bị bụi vô mắt hoặc đau mắt thôi cũng đã thấy khổ rồi, chứ nói chi tới khiếm thị, lòa, thông manh hoặc mù lòa. Thảo nào tiền nhân đã xác định: “Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay”. Điều đó cho thấy đôi mắt sáng rất cần cho cuộc sống. Người mù bẩm sinh còn đỡ khổ hơn người lớn lên mới bị mù. Người mù bẩm sinh cảm thấy “bình thường” vì họ không có khái niệm về sáng – tối, cao – thấp, lớn – nhỏ, mập – gầy, vuông – tròn,… hoặc về màu sắc. Người lớn lên mới bị mù cảm thấy khổ hơn vì đã trải nghiệm nhiều khái niệm. Một người mắt sáng bình thường nhưng vẫn có những “điểm mù” đặc trưng nào đó.
Có hai con mắt, mờ một mắt, kém hoặc hư một mắt, thị lực yếu cũng là khổ lắm rồi, huống chi bị mù hẳn. Hai con mắt “khác” một chút như bị đau cũng thấy khổ rồi, tình trạng “bốn mắt” là khổ suốt – dù có thêm “hai con mắt” nữa. Kính mắt vừa tốn kém vừa vướng víu, phiền phức vì phải lệ thuộc nó!
Thật lạ lùng là mắt cũng biết khóc, biết cười, chứ không đơn giản chỉ để nhìn. Khó nhận biết khi mắt cười, nhưng ai cũng nhận biết khi mắt khóc. Khóc cũng đa dạng: vì vui, vì buồn, vì khổ, vì thương, vì nhớ, vì tức, vì sợ, vì nhõng nhẽo, vì giả bộ,… Tuy nhiên, đôi khi người ta cũng cần phải biết khóc, vì nước mắt có thể “cuốn trôi” nỗi buồn và làm sạch mắt nhờ chất mặn, nhờ biết khóc mà mắt thêm đẹp. Có điều đặc biệt là phải khóc vì tội lỗi mình đã phạm – tội với Thiên Chúa và lỗi với tha nhân!
Nước mắt là loại đặc ngữ mà trái tim không thể diễn tả. Mắt còn có khả năng “bật mí” nhiều thứ khác, như người ta ví von: “Đôi mắt là của sổ của tâm hồn”. Qua hai “cửa sổ” này, người ta có thể biết người đối diện như thế nào. Cửa sổ nhỏ hơn cửa ra vào, thế nhưng đôi khi cửa sổ vẫn quan trọng lắm đấy. Đôi khi không cần mở cửa ra vào nhưng lại rất cần mở cửa sổ. Người yếu vía sẽ “tự quay đi” khi nhìn vào mắt của người “mạnh vía”. Dòng nước mạnh sẽ “lướt” dòng nước yếu thôi!
Cảnh mù lòa đồng nghĩa với tối tăm, tất nhiên trái ngược với sáng sủa. Khiếm thị hoặc mù lòa về thể lý là tình trạng tồi tệ đối với một con người, nhưng “mù lòa tâm linh” còn nguy hiểm hơn nhiều. Thế nên Chúa Giêsu đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Thật đáng sợ nếu chúng ta bị Ngài quở trách như vậy. Chắc hẳn lúc đó chúng ta hóa thành người “có mắt như mù”. Khủng khiếp và đáng sợ quá!
Trong cuộc sống có nhiều hình thức mù, nhiều mức độ mù, và cũng đa dạng về “điểm mù”. Ngày xưa, Đức Chúa đã phán với ông Sa-mu-en: “Ngươi còn khóc thương Sa-un cho đến bao giờ, khi ta đã gạt bỏ nó, không cho làm vua cai trị Ít-ra-en nữa? Ngươi hãy lấy dầu đổ đầy sừng và lên đường. Ta sai ngươi đến gặp Gie-sê người Bê-lem, vì Ta đã thấy trong các con trai nó một người Ta muốn đặt làm vua” (1 Sm 16:1). Chúa không nói đến mắt, nhưng chúng ta biết Ngài nói đến mắt nhờ động từ “khóc”.
Trình thuật 1 Sm 16:6-7, 10-13 cho biết rằng khi họ đến, ông Sa-mu-en thấy Ê-li-áp nên nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!”. Nhưng Đức Chúa phán với ông Sa-mu-en: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”. Cách nghĩ của Thiên Chúa đã khác hẳn với loài người rồi, mà cả tầm nhìn của Ngài cũng hoàn toàn khác.
Còn phàm nhân chúng ta ưa “trông mặt mà bắt hình dong”, cứ tưởng “con lợn béo” thì chắc chắn “lòng nó ngon”. Nhưng Thiên Chúa lại không như vậy, Ngài không nhìn theo bề ngoài mà Ngài nhìn “thấu suốt” nội tâm. Tục ngữ Việt Nam chí lý: “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Nhưng mấy khi chúng ta thóat được “điểm mù” này? Những người coi trọng bề ngoài là những người có nội tâm hời hợt, nông cạn – gọi là dạng “yếu bóng vía” hoặc “mắt kém”. Đó cũng là dạng tâm lý yếu kém.
Sau đó, ông Gie-sê cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Sa-mu-en, nhưng ông Sa-mu-en nói với ông Gie-sê: “Đức Chúa không chọn những người này”. Quả là “mắt thần” có khác! Rồi ông lại hỏi ông Gie-sê rằng các con ông có mặt đầy đủ chưa. Ông Gie-sê nói còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên. Ông Sa-mu-en liền bảo ông Gie-sê cho người đi tìm nó về rồi mới nhập tiệc. Ông Gie-sê cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa nói với ông Sa-mu-en: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!”. Ông Sa-mu-en cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Và rồi Thần Khí Chúa liền nhập vào Đa-vít từ ngày đó trở đi. Đặc điểm của Đa-vít: tóc hung và đẹp trai (1 Sm 17:42).
Phụng vụ Chúa Nhật Hồng (Chúa Nhật Mừng – Laetare Sundae) sử dụng trọn Thánh Vịnh 23 (gồm 6 câu). Đây là Thánh Vịnh phổ biến nên rất quen thuộc, nói về niềm hạnh phúc được Chúa quan phòng, tiền định và che chở, đồng thời cũng có ý đề cập niềm tín thác vào Ngài: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 23:1-4).
Thật vậy, khi có Chúa đồng hành thì chúng ta hoàn toàn an tâm và vui sống, “dầu qua lũng âm u” thì cũng “chẳng sợ gì nguy khốn”, bởi vì chúng ta có “côn trượng Ngài bảo vệ”. Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên” (Tv 23:5-6). Vâng, có Chúa là có tất cả, hoàn toàn an tâm vững dạ, bởi vì chúng ta được đi trên “con đường sáng” chứ không hề có chút bóng mờ hoặc tối tăm.
Nói về bóng tối tâm linh, Thánh Phaolô phân tích: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5:8-9). Ông nhắc nhở chúng ta phải cẩn trọng cân nhắc xem “điều gì đẹp lòng Chúa”, chứ “đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng” (Ep 5:10-11). Ông giải thích: “Vì những việc chúng làm lén lút thì nói đến đã là nhục rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra; mà bất cứ điều gì lộ ra thì trở nên ánh sáng. Bởi vậy, có lời chép rằng: “Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi!” (Ep 5:12-14).
Bóng tối đối nghịch với ánh sáng. Bóng tối rất mạnh, chỗ nào không có ánh sáng thì nó phủ đầy ngay. Nó mạnh mà lại yếu, vì chỗ nào có ánh sáng, dù chỉ le lói, nó cũng bị đẩy lùi ngay. Quẹt một que diêm sẽ thấy “tác động” giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng rất cần, nhưng chúng ta phải cố gắng “tạo” ra nó. Có một câu danh ngôn liên quan ánh sáng và bóng tối, ý nói chúng ta phải không ngừng nỗ lực trong cuộc sống: “Hãy thắp lên một ngọn nến còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”.
Cuộc sống đời thường và tâm linh cũng tương tự. Chuyện đời thường mà chúng ta còn phải cố gắng thì chuyện tâm linh càng phải nỗ lực hơn nhiều lắm!
Một hôm, Thầy trò cùng nhìn thấy một người mù bẩm sinh. Các môn đệ hỏi Sư Phụ Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?”. Đức Giêsu trả lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian” (Ga 9:3-5). Khi “thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện” là lúc Thiên Chúa được vinh danh.
Tuy nhiên, đáng lẽ chúng ta phải “ngộ” ra nhờ câu trả lời của Chúa Giêsu mới phải, thế nhưng có lẽ chúng ta vẫn không mấy quan tâm. Do đó, trong cuộc sống, chúng ta vẫn “chắc nịch” cho rằng những người kém may mắn hơn mình (làm ăn thua lỗ, mùa màng thất bát, bị tai nạn, bị bệnh hoạn, gặp điều xui xẻo,…) là những người tội lỗi, xấu xa hoặc độc ác. Có người chỉ “để bụng”, nhưng có người lại dám phán một câu “xanh rờn” rằng: “Chúa phạt!”. Ôi, lạy Chúa tôi! Nói theo phim bộ Hong Kong thì phải nói: “Thiện tai!”.
Không chỉ vậy, chúng ta còn có thiên kiến (định kiến). Cũng một sự việc như nhau (ví dụ: bệnh hoạn), với người không “hợp ý mình” thì chúng ta nói: “Chúa phạt cho đáng đời!”. Nhưng với người “hợp ý mình” thì chúng ta lại nói: “Thánh giá Chúa trao”. Đúng là “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Chính định kiến đó là cách chúng ta “giết” người mà không cần gươm giáo!
Đừng quên Thiên Chúa đã nghiêm khắc cảnh báo: “Đừng tưởng mình là công chính trước mặt Đức Chúa, cũng đừng ra vẻ khôn ngoan bên cạnh đức vua. Đừng cười nhạo ai đang cay đắng trong lòng, vì có Đấng vừa hạ xuống vừa cất nhắc lên” (Hc 7:5 và 11). Mọi sự đã có Thiên Chúa quan phòng và tiền định, đừng cầm đèn chạy trước ô-tô, trứng đừng đòi khôn hơn vịt, vì đó KHÔNG là việc của chúng ta!
Trả lời các đệ tử xong, Chúa Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là “người được sai phái”). Anh ta đến rửa ở hồ ngay lập tức, và trên đường về thì nhìn thấy được. Chúa Giêsu có “biệt dược” độc đáo ghê đi, hiệu quả liền. Mà phải nói là “thần dược” hoặc “linh dược” mới đúng ngữ nghĩa. Đó là “nước miếng trộn với bùn”. Hay dữ nghen! Mấy lang băm chớ mà học đòi theo Thầy Giêsu kẻo bệnh nhân hóa tệ hơn, còn các pháp sư thấy vậy thì phải sợ mà chạy có cờ, các lương y và bác sĩ danh tiếng cũng phải tâm phục khẩu phục!
Trước đó, dân chúng hằng ngày thấy anh ta ăn xin mới xì xầm bàn tán, kẻ thì bảo là chính hắn, kẻ thì bảo không phải, kẻ lại bảo ai đó giống hắn thôi. Chín người, mười ý. Chẳng ai chịu ai. Thế là họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu. Rắc rối là ngày Chúa Giêsu trộn bùn với nước miếng và làm cho anh ta sáng mắt lại là ngày sa-bát. Ấy thế, người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Chính anh xác nhận: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy” (Ga 9:15). Sự thật là sự thật, không thể nói khác được.
Còn trong nhóm Pha-ri-sêu, có người thì nói rằng Chúa Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì Ngài không giữ ngày sa-bát, có kẻ thì lập luận rằng người tội lỗi không thể làm được những dấu lạ như vậy. Cũng chẳng ai chịu ai, thế là họ đâm ra chia rẽ. Ngộ dữ nghen, chuyện của người ta mà xía vô làm chi vậy kìa? Rồi họ lại hỏi “cựu người mù” nghĩ gì về người đã mở mắt cho mình. Anh ta đáp ngay: “Người là một vị ngôn sứ!” (Ga 9:17). Rất thẳng thắn, rất rạch ròi. Sự thật là thế mà!
Những người Do-thái không tin trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, họ đã gọi cha mẹ của anh ta đến. Họ hỏi anh ta có phải là con không. Cha mẹ của anh ta XÁC NHẬN anh bị mù từ khi mới sinh, còn bây giờ anh ta sáng mắt, chuyện này thì họ không biết tại sao, cha mẹ của anh ta bảo họ cứ hỏi chính anh ta là rõ ràng nhất. Cha mẹ của anh ta nói thế vì sợ người Do-thái, những người sẵn sàng trục xuất khỏi hội đường bất cứ kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô. Có lẽ chúng ta cũng đã nhiều lần hèn nhát vì SỢ như cha mẹ của anh mù này. Chẳng oan ức chi mô!
Và rồi một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi” (Ga 9:24). Trước nói khác, sau nói khác. Đúng là “lưỡi rắn” của bọn Biệt Phái. Nhưng anh ta bảo rằng ông ấy có phải là người tội lỗi hay không thì anh không biết, mà anh chỉ biết một điều là trước đây anh bị mù nhưng nay anh nhìn thấy được. Họ hỏi anh xem Chúa Giêsu đã làm thế nào mà anh sáng mắt. Anh bảo rằng anh đã nói rồi mà họ không chịu nghe. Rồi anh thẳng thắn đặt vấn đề rằng có phải họ cũng muốn làm môn đệ Chúa Giêsu hay không. Tự ái bốc tới chỏm đầu nên họ không tiếc lời mắng nhiếc: “Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê; nhưng chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Thật là phiền toái với loại người lắm chuyện và giả hình như bọn Biệt Phái!
Nghe họ nói vậy, anh ta vừa gãi đầu vừa nói: “Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:30-33). Họ đối lại: “Trứng khôn hơn vịt. Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34). Và rồi họ liền trục xuất anh ta. Người có tâm địa xấu là vậy, chỉ chờ có thế thôi!
Chính Đức Giêsu cũng biết họ đã trục xuất anh ta. Khi gặp lại, Ngài hỏi anh ta có tin vào Con Người không, anh ta hỏi Đấng ấy là ai để anh ta tin. Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây” (Ga 9:37). Thật bất ngờ, nhưng anh thấy rất vui nên nói ngay: “Thưa Ngài, tôi tin” (Ga 9:38). Nói xong, anh sấp mình xuống trước mặt Ngài. Đức tin của “cựu người mù” này lớn quá! Tại sao? Thường thì đa số hơn thiểu số, nhiều người ghét Chúa Giêsu, nhưng anh vẫn có lập trường rõ ràng của riêng mình, không chịu “gió chiều nào ngả theo chiều nấy”. Mấy ai dám hành động như anh ta? Quả thật, anh ta rất can đảm, đáng để chúng ta noi gương lắm.
Biết anh thật lòng, vì Chúa Giêsu “đi guốc trong bụng mọi người” (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6), Ngài nói với anh ta: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9:39). Những người Pha-ri-sêu đang ở đó và nghe vậy thì giật thót mình và liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”. Lại tự ái. Đầu óc “bã đậu” và “nhỏ mọn” như thế thì chả bao giờ khá lên được. Đầu óc gì mà nhỏ như hạt đậu, hẹp như ống hút nước vậy! Có lẽ lúc ấy Chúa Giêsu cũng mắc cười và lắc đầu, nhưng vẫn thản nhiên bảo họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’, nên TỘI CÁC ÔNG VẪN CÒN!” (Ga 9:41). Họ thường ngu đột xuất, giờ lại tiếp tục ngu kinh niên, ngu tầm cỡ quốc tế luôn!
Thế còn chúng ta? Liệu đã có những lần chúng ta y như người Pha-ri-sêu vậy? Chắc chẳng hơn họ đâu! Và rồi chúng ta cũng vẫn cứng lòng, không chịu “cho vào tai” những lời “thuận ngôn”, không chịu “cân nhắc” lời hơn lẽ thiệt, không chịu “mở mắt” to để nhìn rõ vấn đề, thế nên chúng ta “có mắt như mù”. Thật đáng sợ biết bao!
Như chúng ta đã biết, mù lòa thì chắc chắn khổ, nhưng chỉ mờ mắt hoặc thông manh cũng khổ lắm, và cũng khổ nếu cận thị, viễn thị hoặc loạn thị. Nói chung là khổ hết ráo, nếu đôi mắt không bình thường. Tác giả Thánh Vịnh nói: “Mở mắt coi, bạn liền thấy rõ thế nào là số phận bọn ác nhân” (Tv 91:8). Do đó, chúng ta phải luôn biết cầu nguyện: “Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao” (Tv 119:18).
Chúa Nhật IV Mùa Chay là “cột mốc” cho biết rằng chúng ta đã đi được nửa Hành Trình Mùa Chay. Con-mắt-đức-tin của chúng ta đã “nhìn” thấy gì, “sáng” thêm mấy độ, còn cận thị, viễn thị hoặc loạn thị nhiều hay ít? Chúng ta cận thị vì tưởng mình đạo đức tốt lành, viễn thị vì không nhìn rõ tội mình, và loạn thị vì cứ “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, và lỗi tại người khác một phần”. Đã qua nửa hành trình Mùa Chay, chúng ta cùng tạ ơn Chúa, đồng thời tiếp tục cầu xin Ngài dìu dắt chúng ta vác thập-giá-của-mình cho hết chặng Đời-Chay theo đúng Thánh Ý của Ngài.
Thiết tưởng cũng cần đề cập câu nói của Mahatma Gandhi: “Tôi yêu mến Chúa Kitô nhưng tôi ghét các Kitô hữu, vì họ KHÔNG GIỐNG Đức Kitô. Nếu họ giống Đức Kitô thì dân Ấn chúng tôi trở lại Công giáo cả rồi”. Thật là “nhức nhối” quá, vì chúng ta còn nhiều ảo tưởng lắm – tức là chứng mù trầm kha!
Lạy Thiên Chúa là Bác Sĩ Toàn Năng, xin mở mắt-đức-tin cho con, xin tăng thị-lực-tâm-linh cho con, xin giúp con nhìn thấy chính Chúa trong mọi người – nhất là nơi những người nghèo khổ, nơi những người hèn mọn, và xin cho bất kỳ ai gặp con cũng có thể nhận thấy Ngài sống động nơi con. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU