CN 3 TN: MỒNG HAI TẾT
KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Mt 4,12-17)
Chữ “HIẾU” rất quan trọng đối với người Á Đông, trong đó có người Việt Nam chúng ta, cho nên người ta nâng chữ hiếu lên thành ĐẠO HIẾU tức đạo làm con.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con.
Trong mười giới răn của Đạo Công Giáo có một giới răn nói về vấn đề này: ”thứ bốn thảo kính cha mẹ” (x. Xh 20,10). Thảo kính là yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ cha mẹ khi còn sống và đã qua đời (x. Giáo Lý Công Giáo số 2215-2218).
Nếu cha mẹ còn sống thì đây là một ơn huệ lớn cho cuộc đời chúng ta, vì chúng ta có cơ hội để tỏ lòng hiếu thảo. Tổng Thống George Washington một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: “tại sao con lại chịu khó và mất thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?”
Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả lời, “thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất thì giờ, bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống”[1]
Chúng ta dễ dàng nhớ đến người còn sống, vì các ngài đang ở kề cận chúng ta, nhưng còn với những người đã chết thì như thế nào? Chúng ta biết gì về họ? và họ có những mối tương quan nào?
Ai sẽ trả lời cho chúng ta?
Rất may, kinh nghiệm của những người cận tử sẽ khai sáng cho chúng ta, nhưng những người cận tử là ai, họ là những người như thế nào?
Trong chúng ta ít người có kinh nghiệm về sự sống lại, nhưng mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và người Mỹ đã chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là “kinh nghiệm cận tử” (near death experience): kinh nghiệm cận tử là kinh nghiệm của một người mà vì một tai nạn hay vì một lý do nào đó làm họ ngất đi trong một thời gian khá lâu. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết, nhưng sau đó họ sống lại. Đó là vấn đề của “kinh nghiệm cận tử”.
Một “cận tử nhân” gặp những người thân và bạn bè đã diễn tả lại như sau:
“Rất nhiều linh hồn vây quanh tôi. Họ giống như người thân trong gia đình. Cuộc gặp gỡ với những linh hồn này giống như sự sum họp cùng những người quan trọng nhất của một đời người sau một thời gian dài xa cách. Trong chúng tôi dâng trào tình yêu và sự hân hoan khi gặp lại nhau.
Cha tôi đứng ngay bên phải, chị gái tôi đứng bên trái. Chị tôi và những người khác trong gia đình tôi dường như đều đứng bên trái cả. Ngoài cha và chị tôi, tôi còn nhận ra một người nữa đó là bà tôi. Tôi nghe giọng nói của mẹ tôi và con gái tôi. Con gái tôi hai tuổi nhưng tôi có cảm giác như nghe tiếng của một thiếu nữ, nhưng tôi vẫn nhận ra đó là giọng nói của con tôi. Hai người đang gọi tên tôi…”[2]
Và một “cận tử nhân” khác là Jaime chia sẻ lại như sau:
“Tôi chợt nghĩ đến “bà ngoại”. Tôi không ngừng nói “bà vẫn chưa chết. Cháu vẫn chưa chết, bà vẫn chưa chết”. Bà nói: “không, bà chưa chết và cháu cũng chưa chết”. Thực tế là bà đã chết cách đây ba năm do chứng tâm thần phân liệt…
Bà bảo tôi ngồi xuống và dùng cà phê cùng bà, chúng tôi vẫn thường cùng nhau uống cà phê như thế tại nhà bà khi bà còn sống. Tôi cũng nhìn thấy chiếc bàn và những chiếc ghế ngày xưa. Trông bà còn rất trẻ, khoảng dưới bốn mươi. Bà mặc bộ đồ màu tím, có nhiều hoa, chỉ có điều những bông hoa này dường như sáng rực, vàng óng và tỏa sáng.
Tôi nói với bà rằng mọi người luôn nhớ đến bà mỗi ngày. Bà nói bà biết điều đó. Bà biết rằng chúng tôi yêu bà rất nhiều và bà cũng yêu chúng tôi nhiều lắm.
Tôi nhận thấy rằng căn phòng giống một mái vòm, bên trái căn phòng có một chiếc rèm cửa, tôi trông thấy ông tôi đang lén nhìn, và tôi cũng trông thấy một phụ nữ khác, đậm người, thấp, tóc cột kiểu đuôi ngựa. Tôi định nói gì đó thì bà nói với tôi rằng: “cháu phải đi, cháu không thể ở đây nữa, chưa phải lúc”.
Tôi hoảng sợ, tôi òa lên khóc. Tôi nói với bà: “nhưng bà ơi, cháu muốn ở lại đây”. Tôi không muốn rời bỏ nơi tuyệt vời này. Tôi van xin bà: “bà ơi, làm ơn đi, cháu muốn ở lại với bà. Cháu không bao giờ muốn rời khỏi đây”.
Bà nói, “cháu sẽ trở lại đây vào lúc khác, đừng lo”. Sau đó, bà tiếp lời: “hãy nhắn với mọi người rằng ta yêu mọi người và lúc nào ta cũng nghĩ đến mọi người”.
Tôi vẫn nằng nặc nói: “nhưng cháu muốn ở lại”, và sau đó tôi nghe một tiếng va đập lớn, như thể có gì đó đập vào ngực tôi như muốn tức thở. Tôi hồi tỉnh… tôi cảm thấy thật khủng khiếp. Tôi nhận ra cha tôi và cả gia đình đang vây quanh mình. Tôi không nhớ những gì xảy ra tiếp theo, nhưng tôi nhớ là tôi đã nói với cha tôi rằng tôi cần một tờ giấy. Tôi viết rằng: “con đã gặp bà”.[3]
Qua những sự kiện trên, những người cận tử muốn nói với chúng ta rằng:
- Họ rất hạnh phúc khi được tiếp cận với thế giới bên kia.
Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm chung sau đây:
– Họ không còn sợ chết nữa.
– Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.
– Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa.
Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.
2.Những người cận tử còn cho thấy rằng họ đã được tiếp xúc với những người ở thế giới bên kia, đặc biệt là những người thân trong gia đình. Điều này giúp chúng ta xác tín hơn với tín điều các thánh cùng thông công: một là Hội Thánh “Lữ Hành”, hai là Hội Thánh “Vinh Thắng”, ba là Hội Thánh “Đau Khổ”
– Hội Thánh “Lữ Hành” là các tín hữu trong Hội Thánh lữ hành trần gian còn phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt của mình.
– Hội Thánh “Vinh Thắng” trên trời gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Họ đang được hưởng hạnh phúc Thiên Đàng với Chúa.
– Hội Thánh “Đau Khổ” thanh luyện gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa, nhưng khi chết vẫn đang ở trong tình trạng còn nhiều khuyết điểm, còn nhiều sai lỗi. Họ cần tiếp tục chịu đau khổ trong ngọn lửa tin yêu để được thanh luyện sạch mọi vết nhơ. Rồi khi hoàn toàn trở nên thánh thiện, họ sẽ được về hưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
Đây chính là lý do chúng ta dành ngày mồng hai Tết để cầu nguyện cho ông bà tổ tiên còn sống cũng như đã qua đời. Amen
26/01: CN 3 TN: Những môn đệ đầu tiên (Mt 4,12-23)
Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Đây là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng nhưng cũng đầy gian nan thử thách, nên cần phải tuyển cho được những ứng viên phù hợp.
– Trong các thành phần Dân Chúa, chúng ta thấy nổi bật nhất là các Tư Tế ở Đền Thờ Giêrusalem. Họ là những người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc tế lễ thờ phượng Thiên Chúa. Xem ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.
– Kế đó, thành phần Luật Sĩ là những người học rộng và thông thạo Thánh Kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế nhưng Chúa Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị ấy làm tông đồ của Người.
– Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là các người Biệt Phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm túc. Những người như thế rất xứng đáng đứng vào hàng ngũ lãnh đạo Dân Chúa. Thế nhưng Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người Biệt Phái nào làm tông đồ cho Người.
Như vậy, Chúa Giêsu đã không chọn những người có địa vị trong xã hội, những người giàu sang quyền quý hay những bậc trí thức làm môn đệ đầu tiên của Người, nhưng lại chọn gọi những người chài lưới.
Tại sao Chúa Giêsu lại chọn các ngư phủ làm môn đệ đầu tiên?
Các ngư phủ là những người dạn dày sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối giữa sóng gió trập trùng; không sợ đói, không sợ khát; không sợ bão tố cuồng phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình. Chính vì thế nhiều học giả đã nêu lên những đức tính của người ngư phủ:
1.Nhẫn nại
Kiên nhẫn chờ cá cắn; không kiên nhẫn chờ đợi, hay thay đổi, không bao giờ bắt được cá. Chài lưới cá đã khó, mà chài lưới người còn khó hơn. Việc rao giảng, dạy dỗ thường không có kết quả ngay. Phải kiên nhẫn chờ đợi, không bao giờ được nản chí.
2.Can đảm
Như một bô lão Hy Lạp xưa đã cầu xin để các thần linh phù trợ: “thuyền của tôi thì nhỏ bé quá mà đại dương lại mênh mông vô bờ”. Phải sẵn sàng đối diện với sóng gió bão táp hiểm nguy của đại dương.
3.Tinh ý
Người chài lưới khôn ngoan biết khi nào quăng câu thả lưới, khi nào không. Người giảng, dạy dỗ cũng phải tinh ý, tinh mắt, khi nào người ta sẵn sàng nghe, khi nào họ tỏ dấu mệt mỏi; khi nào sự thật có thể đánh động lòng họ, khi nào sự thật chỉ làm họ chai đá hơn; khi nào phải nói khi nào không.
4.Dùng đúng mồi
Mỗi thứ cá phải có những loại mồi khác nhau. Cá này thích mồi này, cá khác thích mồi khác. Người ngư phủ kinh nghiệm biết dùng thứ mồi nào để bắt cho được cá. Ông cũng biết sự hạn hẹp của mình, lãnh vực mình có thể làm, lãnh vực mình không thể làm.
6.Ấn mặt
Câu cá, thả lưới mà chường mặt ra, ngay cả bóng dáng, cũng khó lòng bắt được cá. Người rao giảng, dạy dỗ khôn ngoan, không được nói về mình mà phải nói về Chúa Giêsu. Mục đích không phải là hướng dẫn người khác nhìn vào mình mà nhìn vào Đấng Trên Cao.
Chúng ta nhìn vào các môn đệ đầu tiên. Các ngài chỉ là những người bình thường, không thuộc hàng quí tộc, không có học thức cũng không giàu có. Các ngài chỉ là ngư dân, nghĩa là những con người tầm thường, bình dị. Chưa hề có ai tin tưởng vào những con người bình thường như Chúa Giêsu. George Bernard Shaw có lần nói “tôi chưa hề nghĩ gì về giai cấp công nhân, ngoại trừ muốn xóa bỏ nó đi để thay vào bằng những người nhạy cảm”. Trong quyển “The patrician”, John Galsworthy ký thác lời cho một nhân vật của ông: “quần chúng, tôi không ưa họ, tôi ghét sự ngu xuẩn đê tiện của họ, tôi ghét tiếng ồn ào của họ, ghét nhìn thẳng gương mặt họ, nó nhỏ mọn xấu xí làm sao ấy”. Chúa Giêsu không như vậy. Lincoln đã từng nói: “Đức Chúa Trời yêu thương giới bình dân, Ngài đã tạo ra họ thật đông đảo”. Dường như Chúa Giêsu muốn mời gọi “hãy giao cho tôi mười hai người tầm thường, và với chừng ấy, nếu họ tự hiến thân cho tôi, tôi sẽ thay đổi cả thế giới này.” Đừng bao giờ chúng ta nghĩ quá nhiều về mình, nhưng hãy nghĩ đến những gì Chúa sẽ biến đổi chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa Tội, chúng con được trở thành con cái của Chúa và Chúa cũng mời gọi chúng con làm tông đồ cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con. Amen.
Lm Giuse Đỗ văn Thụy
[1] Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, trg. 27-28
[2] Jeffrey Long, M.D. và Paul Perry, The Evedence of The Afterlife (Giải Mã Tâm Linh), trg.19
[3] Jeffrey Long, M.D. và Paul Perry, The Evedence of The Afterlife (Giải Mã Tâm Linh), trg.19