Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy niệm Tin mừng Chúa nhật III mùa Chay, năm A, của Trầm Thiên Thu

Suy niệm Tin mừng Chúa nhật III mùa Chay, năm A, của Trầm Thiên Thu

CƠN KHÁT

CƠN KHÁTCuộc đời phàm nhân có nhiều loại khát – khát về thể lý và khát về tinh thần. Mức độ khát cũng đa dạng và khác nhau. Cơn khát nào cũng cần được giải khát. Cơn khát của Chúa Giêsu là cơn khát đặc biệt, liên quan cả thể lý lẫn tinh thần: “Tôi khát!” (Ga 19:28).

Về thể lý, khát là trạng thái thiếu nước. Muốn hết khát thì phải có nước để làm cho hết khát, gọi là giải khát. Đồ uống cần gấp hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói dài ngày hơn nhịn khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp lắm! Tất nhiên nước đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý” làm chi.

Điều đó là động thái rất đơn giản và chỉ là “chuyện nhỏ”, nhưng lại thực sự cần thiết, nhất là vào những ngày hè nắng nóng, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Nắng tháng Ba, chó già le lưỡi”. Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc làm “nhỏ bé” như vậy: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42). Thật là tuyệt vời!

Về tinh thần, cơn khát đa dạng hơn (hạnh phúc, tình yêu, danh vọng, sự nghiệp,…), và cũng cấp bách lắm. Plato (khoảng 427-347 TCN, triết gia cổ đại Hy Lạp) phân tích: “Hành vi của con người bắt đầu từ ba nguồn chính: khao khát, cảm xúc và tri thức”. Còn Denis Diderot (1713-1784, văn sĩ kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chỉ có một khát khao, khát khao hạnh phúc – Il n’y a qu’une passion, la passion du bonheur”.

Cơn khát thể lý cấp bách, nhưng cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán là “thiên tai” (có thể là “nhân tai” nhưng người ta đổ lỗi cho Ông Trời), không mưa nên thiếu nước, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh càng nguy hiểm hơn, vì đó là “nhân tai” (chắc chắn cái này chỉ là “nhân tai” mà thôi). Và rồi chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi hạn hán. Chúng ta phải thực sự khát Ngài.

CƠN KHÁT THỂ LÝ

Thời Cựu Ước, trong hành trình sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4). Nắng đồng bằng đã khó chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa. Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Mô-sê cũng “ngán” lắm nên kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4).

Đá luôn có sẵn, vùng sỏi đá có khác, muốn “chơi” thì cứ việc lấy đá chọi thẳng tay ngay. Chả biết phải trái thế nào, lạng quạng là chết chắc. Kể cũng “ngại” thật! Thấy tội nghiệp, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17:5-6). Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Ông Mô-sê nghe vậy và làm y chang trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là THỬ THÁCH và GÂY SỰ, vì con cái Ít-ra-en đã dám gây sự và thử thách Đức Chúa mà nói: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7). Đặt vấn đề như vậy là nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta cũng đã có lúc “đặt vấn đề” về đức tin như vậy!

Có lẽ chúng ta cho rằng dân Ít-ra-en “uống thuốc liều” quá chỉ định, vì dám gây sự và thử thách Chúa. Đúng là “bán trời không cần văn tự”. Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng hơn gì, có khi còn hơn họ nữa đấy. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu “mắc nối tiếp” như nối các bóng điện, dạng “họa vô đơn chí”, chắc hẳn cũng đã có những lần chúng ta bị “lung lay” về đức tin. Dù không nói ra nhưng các động thái của chúng ta cũng bộc lộ nghi vấn: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo tưởng?”. Có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!”. Với các Kitô hữu, Trời là ai chứ? Như vậy không phải là chúng ta “liều mạng” hơn dân Ít-ra-en sao? Chẳng oan ức chi mô!

Việc ăn năn sám hối không là động thái chỉ được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, kỳ tĩnh tâm,… mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời: Mùa nào cũng là mùa sám hối, ngày nào cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm (cấm phòng). Đó là sẵn sàng dầu đèn như 10 cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể (x. Mt 25:1-13). Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn, nhất là đối với những người còn “ngủ mê”, do đó mà có nghiêm luật: Xưng tội mỗi năm ít là một lần, đồng thời xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh.

Chúng ta sẽ nhận ra Thiên Chúa khi nhìn vào vạn vật, thiên nhiên. Đơn giản nhất là không khí. Không có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái cực tiểu nhưng lại là cực đại. Còn những thứ khác như ánh sáng, không có ánh nắng thì ai cũng như mù vậy. Vì thế, hãy nghe lời tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Thánh Vịnh này phổ biến, quen thuộc, vì được Giáo Hội sử dụng hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ.

Không thể im lặng, tác giả Thánh Vịnh nói thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7a). Trong Mùa Chay, chúng ta thường xuyên được nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:7b-9). Và Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đây thời kỳ Chúa thi ân, Thời gian cứu độ dành phần cho ta” (2 Cr 6:2).

Khi đề cập Mơ-ri-va và Ma-xa tức là nhắc nhở chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa”. Không dám làm vậy là chúng ta bắt đầu tin Chúa hiện hữu. Niềm tin là khởi đầu của mọi thứ: Tin Chúa (tín thác) → Thương người → Tha thứ (thương xót tha nhân) → Thánh ân (được hưởng) → Trắng án (sạch tội) → Trường sinh (nên thánh, làm công dân Nước Trời). Một chuỗi những chữ T kỳ diệu!

CƠN KHÁT TINH THẦN

Chấp nhận hay từ chối, đó là tin. Đức tin thật kỳ diệu, vì đó là một trong các “mối phúc ngoại lệ” (*), và vì đức tin có khả năng làm người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa” (Rm 5:1-2).

Để dễ hiểu và có thể hiểu thấu đáo, Thánh Phaolô giải thích: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).

Khi đọc các thư của Thánh Phaolô, chúng ta thấy điều gì cũng được diễn tả rất chi tiết, mạch lạc. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, và chúng ta gọi là Lòng Chúa Thương Xót. Đã có lần Chúa Giêsu minh định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Thế nhưng đâu mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai đó. Đó là dạng khát “không giống ai”, rất khác lạ. Sẵn sàng tha thứ là làm thánh rồi đấy!

Như một đoạn phim thú vị về tính nhân bản và niềm khát khao, trình thuật Ga 4:5-42 nói về phụ nữ Sa-ma-ri gặp Chúa Giêsu bên giếng nước và được Ngài ban cho loại nước trường sinh bất tử, uống vô hết khát liền.

Thánh sử Gioan cho biết: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Sa-ma-ri, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse và có giếng của ông Gia-cóp. Ngài đi đường mỏi mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng như lửa thiêu.

Lúc đó có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?”. (Vì kính trọng Chúa Giêsu khi dịch Kinh Thánh thôi, chứ Chúa Giêsu lúc đó còn trẻ măng, nếu là người Việt thì chắc là phụ nữ ngoại giáo kia sẽ dùng hai đại từ là Anh và Em hoặc Tôi). Tại sao chị ấy ngạc nhiên? Vì thời đó, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giêsu xởi lởi: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống”. Chúa Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại. Điều đó cho thấy rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT” (Ga 18:38).

Cô nàng vô danh người Sa-ma-ri còn thắc mắc rằng Chúa Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có được nước hằng sống mà cho. Chị không hiểu ý Chúa Giêsu. Rồi chị còn chứng minh rằng tổ phụ Gia-cóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này. Đức Giêsu lại cười rất hiền, và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời đấy”. Chị gãi đầu và nghĩ thầm: “Chu choa! Lạ dữ nghen!”. Không lạ sao được, thế mới đáng nói chứ!

Ôi chao, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, cứ miệng chữ A rồi mắt chữ O, thế nhưng chắc hẳn chị cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì thấy có gì đó rất kỳ lạ. Và chị nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Chả bảo cho hay không cho, mà Ngài lại bảo chị ấy gọi chồng ra đó. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên” thôi, không chồng con chi cả. Đức Giêsu cười và bảo chị nói đúng. Ngài nói “toạc móng heo” là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi, nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói mà nói trúng phoóc. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận ngay trước mặt Chúa Giêsu: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ”.

Và không chỉ có vậy, Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo không được thờ phượng Thiên Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Tốt lắm!

Sau đó, Đức Giêsu nghiêm sắc mặt và nói “dài hơi” chút xíu: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Chị Hai này hay thiệt, xem chừng giỏi Kinh Thánh nữa nghen, vì chị nghe Ngài nói vậy mà không “théc méc” chi ráo trọi, rồi chị còn nghiêm túc thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Trúng phoóc. Giỏi dữ nghen! Và Đức Giêsu nói ngay: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chị này diễm phúc quá xá luôn. Chị được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Sướng rơn!

Câu chuyện vừa tới đó thì đúng lúc các môn đệ đi chợ về, lỉnh kỉnh đồ ăn và thức uống. Các ông ngạc nhiên vì thấy Sư Phụ nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ à nghen! Thế nhưng chẳng đệ tử nào dám hỏi nửa lời.

Sau đó, người phụ nữ phấn khởi đến nỗi bỏ vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một “Người Lạ”, rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là dân thành tuôn ra như trẩy hội. Được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ mà vui! Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa mãn niềm khát khao lâu nay, nhất là chị Hai ngoại giáo.

Đã quá trưa rồi, chắc là ai cũng đói meo, thế nên các môn đệ thưa: “Bạch Thầy, xin mời Thầy dùng bữa”. Ngài “bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Họ tưởng Sư Phụ no xôi chán chè rồi, chả cần gì nữa. Các ông đâu ngờ Sư Phụ nói về loại “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được, bằng thầy cũng khá lắm rồi (x. Mt 10:24-25). Dĩ nhiên Ngài rất thông cảm cho các đệ tử của mình thôi. Thuận ngôn nào cũng gây nghịch nhĩ!

Thánh sử Gioan cho biết rằng, hôm đó có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ÔNG ẤY NÓI VỚI TÔI MỌI VIỆC TÔI ĐÃ LÀM. Hiệu quả nhãn tiền của việc làm chứng thật. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới THẤU SUỐT MỌI SỰ, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ và tương lai của một con người (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).

Ngày hôm đó, dân Sa-ma-ri xin Ngài ở lại với họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày. Và rồi số người tin lời Đức Giêsu còn tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai ngoại giáo: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Chả có vấn đề gì, chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Chúng ta là những người được Chúa tuyển chọn, cách này hay cách khác – giáo sĩ, tu sĩ, cán bộ hoặc hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy mắc cở, xấu hổ? Thiên Chúa có tuyển chọn chị Hai ngoại giáo? (Chỉ có mỗi người TỰ TRẢ LỜI được thôi).

Khi đề cập niềm khát khao, chúng ta còn nghe văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá trên Đồi Sọ năm xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Đó là nỗi “khát tình”. Ngài khát yêu thương, muốn thương xót mọi người, nhưng người ta không lưu ý. Ngài còn có cái khát khác thường là “khát đau khổ”, Ngài bằng lòng uống “chén đắng”, không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua (Ga 19:29), và ứng nghiệm lời tác giả Thánh Vịnh than thở thuở xưa: “Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69:22).

Trong Mùa Chay, ước gì mỗi người đều biết thực sự khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y như chị Hai Sa-ma-ri và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống” (Tv 42:3). Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào “Người-Lạ” là rất hợp lý, là “đúng ý Chúa”. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng, không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta: “Nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Và tất nhiên chúng ta không thể không “hỉ xả” với người khác.

Thánh LM Thomas Aquinas (1225–1274, Tiến Sĩ Giáo Hội) đã soạn kinh nguyện chuẩn bị Thánh Lễ thế này: “Con bệnh tật tìm đến Bác Sĩ Sự Sống, con không tinh tuyền tìm đến Giếng Nước Lòng Thương Xót, con mù lòa tìm đến Ánh Sáng chói lọi đời đời, con nghèo nànthiếu thốn tìm đến Chúa Tể Càn Khôn”. Ước gì chúng ta cũng có “cơn khát” như thánh nhân!

Lạy Thiên Chúa là ĐẤNG HẰNG SINH (Xh 3:14; Đnl 5:26; Gs 3:10; Tl 8:19; R 3:13; 1 Sm 14:39 và 45; 1 Sm 17:26 và 36; 1 Sm 19:6; 1 Sm 20:3 và 21; 1 Sm 25:26 và 34; 1 Sm 26:10 và 16; 1 Sm 28:10; 1 Sm 29:6; 2 Sm 2:27; 2 Sm 4:9; 2 Sm 12:5; Tv 42:3; Tv 84:3; Mt 16:6; Mt 26:63; Ga 6:57; Ga 8:24b; Cv 14:15; 2 Cr 3:3; 2 Cr 6:16; 1 Tx 1:9; 1 Tm 3:15; 1 Tm 4:10; Dt 7:24-25), con không biết xin Ngài điều gì, chỉ xin Ngài là “tất cả của đời con”. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp con luôn biết khát Ơn Cứu Độ của Ngài (Tv 119:174), biết can đảm bỏ chiếc-bình-tội-lỗi bên giếng-đời, dám đốt chiếc-áo-tội-lỗi-quá-khứ để mặc chiếc-áo-tín-thác-mới-tinh, và xin Thần Khí Ngài tác động để con biết mau mắn đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu hiện thân nơi những con người bé nhỏ trên đường đời mà con gặp. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

————————

(*) Ngoài Tám Mối Phúc “nòng cốt” (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), còn nhiều các “mối phúc” khác được đề cập trong Kinh Thánh: Lc 7:22-23; Lc 11:28; Lc 14:15; Ga 20:29; Rm 4:7-8; Rm 14:22; Tv 1:1-2; Tv 33:12; Tv 112:5-6; Tv 106:3; Tv 119:1-2; Tv 144:15; Tv 146:5; Cn 3:13; Cn 8:32; Cn 8:34; Hc 28:19; G 5:17; Is 56:2; Gr 17:7; Gc 1:12; Gc 5:11; Kh 1:3; Kh 19:9; Kh 20:6.

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …