Thiên Chúa Nhẫn Nại
Issac Newton đặt vấn đề: “Nếu tôi có được khám phá giá trị nào, đó là nhờ chú y’ nhẫn nại hơn là bất kỳ tài năng nào tôi có”. Cato có cách so sánh cực cấp: “Nhẫn nại là đức tính lớn nhất trong mọi đức tính”. Nhẫn nại là kiên nhẫn, kiên trì, không bỏ cuộc, không quá nóng lòng chờ kết quả, bình tĩnh chờ thời cơ, nhẫn nhục chịu đựng khó khăn. Nhẫn nại cũng có nghĩa là nhịn nhục. Nhẫn nại là một nhân đức, là thứ “cỏ quý” luôn cần đem bên mình như “thần hộ mệnh” vậy.
Không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Thời gian là lúc Ngài nhẫn nại chờ đợi các tội nhân chúng ta biết ăn năn sám hối. Thiên Chúa kêu gọi ăn năn, chúng ta sám hối và xin lỗi Ngài, nhưng rồi chúng ta lại tái phạm, chúng ta lại ăn năn và Ngài lại tha thứ. Đối với phàm nhân chúng ta, chỉ “quá tam ba bận” là nhẫn nại lắm rồi, nói chi “70 lần 7” (Mt 18:22). Vâng, chắc chắn không ai nhẫn nại bằng Thiên Chúa. Vì thế mà ai cũng phải nhẫn nại với nhau, nhẫn nại tha thứ lẫn nhau. Đó là ơn gọi của mọi người, đặc biệt là đối với các Kitô hữu, và trong Mùa Chay này.
Trình thuật Xh 3:1-8a. 13-15 cho biết về ơn gọi và sứ vụ của ông Môsê.
Bấy giờ ông Môsê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. Ông Môsê nhìn thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. Ông tiến đến xem cảnh tượng kỳ lạ này. Từ giữa bụi cây, Thiên Chúa gọi ông và ông thưa: “Dạ, tôi đây”. Ngài phán: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Ngài lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”. Nơi nào có Thiên Chúa, nơi đó là Thánh Địa. Ông Môsê đến Thánh Địa nhưng che mặt đi vì ông sợ – sợ nhìn phải Thiên Chúa.
Tại sao lại sợ nhìn thấy Thiên Chúa? Có lẽ vì đôi mắt phàm nhân không thể chịu nổi ánh sáng phát ra từ nơi Ngài. Đèn cao áp mà mắt thường nhìn còn thấy chói huống chi nhìn ánh mặt trời, mà ánh mặt trời cũng chỉ là ánh sáng của thụ tạo, không là gì so với ánh sáng phát ra từ Thiên Chúa. Vả lại, ông Môsê biết mình là phàm nhân bất xứng với Ngài. Thật đúng vậy. Và chúng ta cũng thế thôi.
Thiên Chúa chí thánh, nhưng Ngài yêu thương các sinh linh do Ngài tác tạo nên Ngài muốn ở với chúng ta, muốn cứu chúng ta, và muốn chúng ta được đồng hưởng vinh quang với Ngài. Các ngôn sứ là những người được Ngài tuyển chọn để “nối kết” với Ngài.
Một trong những người đại diện đó là ông Môsê. Thiên Chúa đã giao sứ mạng cho ông. Ngài nói với ông: “Ta đã THẤY RÕ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã NGHE tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta BIẾT các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống GIẢI THOÁT chúng khỏi tay người Ai-cập, và ĐƯA chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật”. Ông Môsê là người đảm trách việc hướng dẫn dân chúng tiến về Khu Trù Mật mà Thiên Chúa đã hứa ban cho họ.
Đặc biệt là chính Ngài đã mặc khải Thánh Danh của Ngài: Thiên Chúa tự hữu và hằng sinh. Ông Môsê thưa với Ngài: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ít-ra-en và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?”. Ngài cho ông Môsê biết rạch ròi: “Ta là Đấng Hiện Hữu”. Rồi Ngài bảo ông Môsê nói với con cái Ít-ra-en thế này: “Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em”. Ngài còn bảo ông Môsê nói thêm điều này với dân Ít-ra-en: “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”. Rõ ràng Thiên Chúa căn dặn phàm nhân phải kêu cầu Thánh Danh của Ngài, và Ngài sẽ lo liệu cho phù hợp với mỗi người. Đó là mầu nhiệm về sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Vâng, chúng ta không thể nào diễn tả đầy đủ về Thiên Chúa. Phàm ngôn quá ít, trí tuệ quá nhỏ. Chính Ngài đã hào phóng trao ban cho chúng ta mọi sự – từ vật chất đến tinh thần, ngay cả đau khổ cũng là tặng phẩm mà chúng ta không thể nào hiểu nổi. Tất cả đều là mầu nhiệm. Phàm nhân chúng ta chỉ biết cúi đầu chúc tụng và cảm tạ Hồng Ân Thương Xót của Ngài, như tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:1-4).
Thiên Chúa không thiên vị bất cứ ai, kể cả tội nhân. Nhưng Ngài chú ý đặc biệt đối với những kẻ hèn mọn, thấp cổ bé miệng, bị đồng loại đối xử bất công: “Chúa phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ít-ra-en thấy những kỳ công Người thực hiện. Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” (Tv 103:6-8).
Mãi mãi chúng ta không thể hiểu nổi Lòng Thương Xót của Ngài. Nếu chúng ta có quảng diễn theo cách này hoặc cách nọ, đó chỉ là một phần nhỏ có thể giúp nhau hiểu, và để rồi “liệu hồn” mà đối xử với nhau cho hợp tình hợp lý: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” (Tv 103:11).
Từ ngàn xưa, Đức Maria đã hân hoan xưng tụng: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người” (Lc 1:50). Một sự thật minh nhiên, thật hơn cả sự thật. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô. Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (1 Cr 10:1-6). Tất cả chúng ta đều như nhau, thế nên chúng ta phải nên một trong Đức Kitô Giêsu. Không có cách khác để chúng ta chọn lựa.
Thiên Chúa nhẫn nại vì chúng ta, vậy chúng ta cũng phải nhẫn nại lẫn nhau, nhẫn nại với nhau và vì nhau. Không nhẫn nại là ảo tưởng, mà ảo tưởng thì không thể tồn tại: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:10-12).
Thực thi lòng thương xót rất đơn giản, không cầu kỳ, không xa lạ như chúng ta tưởng. Chỉ cần chúng ta nhìn nhau bằng ánh mắt thân thiện là thể hiện lòng thương xót rồi. Nói lời ngọt ngào mà giả dối thì ích gì? Làm từ thiện khắp nơi mà không giúp đỡ người trong gia đình, như vậy không là giả hình thì là gì? Nhẫn nại lẫn nhau là một cách sống lòng thương xót. Nhưng… nói thì dễ, mà làm thì khó. Chúng ta phải thực sự nhẫn nại để tập sống nhẫn nại.
Nhẫn nại sám hối, nhẫn nại yêu thương, nhẫn nại chịu đựng,… nếu không thì chết chắc. Thiên Chúa vui tính và dễ tính, thật thà nhưng Ngài cũng rất thẳng thắn, không nói đùa đâu đấy! Trình thuật Lc 13:1-9 cho chúng ta biết về “tình trạng” này.
Một hôm, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu nói ngay: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ CHẾT hết y như vậy”. Điều kiện cách “nếu không… sẽ chết” như một điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại để cảnh báo những ai ảo tưởng, tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Trong đời thường, khi thấy người khác bị tai nạn hoặc tai ương, nếu nạn nhân là người “theo phe” với mình, người ta cho đó là “thánh giá Chúa gởi đến”; nhưng nếu nạn nhân “đối lập” với mình, người ta lại nói đó là “quả báo”, là “Chúa phạt”. Sự việc tương tự nhưng người ta nhìn bằng hai loại “mắt kính”. Cái “ý tưởng” của phàm nhân thật đáng sợ. Thế mà Thiên Chúa vẫn nhẫn nại, và Ngài tiếp tục im lặng.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn “cây vả không ra trái”. Ngài nói: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’. Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Dụ ngôn ngắn gọn nhưng súc tích, dễ hiểu, cho thấy Thiên Chúa rất yêu thương chúng ta.
Thời gian là sự nhẫn nại của Thiên Chúa. Sự nhẫn nại đó là lòng thương xót của Ngài. Thật vậy, Ngài “không muốn kẻ gian ác PHẢI CHẾT, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và ĐƯỢC SỐNG” (Ed 33:11). Thiên Chúa nhẫn nại với chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta nhẫn nại với nhau: “Phúc thay những kẻ có lòng kiên trì” (Gc 5:11).
Lạy Chúa, xin giúp con biết Chúa và biết con để con tin yêu Ngài và ăn năn tội, nhờ đó mà con biết nhẫn nại với tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU