HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 5 THƯỜNG NIÊN B
G 7,1-4.6-7 ; 1 Cr 9,16-19.22-23 ; Mc 1,29-39
NHIỆT TÌNH CHU TOÀN SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mc 1,29-39
(29) Vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đến nhà hai ông Si-mon và An-rê, có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. (30) Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa. (34) Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai. (35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.
2. Ý CHÍNH: Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giê-su ở thành Ca-phác-na-um: Người giảng dạy trong hội đường vào ngày Sa-bát (c. 21) ; Chữa một người bị thần ô uế nhập (c. 23-28) ; Đến thăm nhà hai anh em Si-mon và An-rê và chữa bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi chiều, Người tiếp tục chữa lành nhiều kẻ ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm Người đã thức dậy và đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha (c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ mệnh được Cha trao phó là đi khắp miền Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
3. CHÚ THÍCH:
– C 29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga 1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới. + Bà mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt nằm trên giường: Người Do Thái thường cho bệnh tật là do ma quỉ gây nên và là dấu chỉ Đức Chúa phạt tội nhân (x. Lv 26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy thời đại Thiên Sai mà ngôn sứ I-sai-a loan báo đã khởi đầu (x. Is 29,18).
– C 31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức Giê-su làm khi cho kẻ chết sống lại (x. Mc 5,41), kẻ bị quỉ ám được chữa lành (x. Mc 9,27). Nâng đỡ dậy là một hành động Đức Giê-su thường làm cho một người đau nặng. Người bị liệt giường tượng trưng cho sự chết, đã được Đức Giê-su nâng dậy, tượng trưng cho sự sống lại. + Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài: Phục vụ ở đây cụ thể là nấu nướng, dọn bữa để tiếp đãi Đức Giê-su và các môn đệ. Qua đó, ta có thể rút ra bài học: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng nếu được ơn Chúa giúp sức nhờ siêng năng lãnh nhận các phép Bí Tích, thì sẽ trở nên mạnh khỏe hơn và sẵn sàng dấn thân phục vụ tha nhân hơn (x. Ga 13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát, để bắt đầu ngày thứ nhất trong tuần.
– C 33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người: Đây là kiểu nói phóng đại để nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ. + Nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật: Đức Giê-su đến để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân: Người không những cứu chữa các bệnh tật về thể xác mà còn chữa cả những bệnh tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng nhập vào. + Không cho ma quỉ nói vì chúng biết Người là ai: Đức Giê-su cấm quỷ không được tiết lộ về sứ vụ Thiên Sai của Người.
– C 35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giê-su năng cầu nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21) ; Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc 6,12) ; Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46) ; Trước khi Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18) ; Khi biến hình trên núi (x. Lc 9,29) ; Trước giờ chịu khổ nạn (x. Mt 26,39)…
– C 38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là thái độ biểu lộ sự hâm mộ của các tông đồ đối với Thầy Giê-su. + “Mọi người đang tìm Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giê-su để nghe Người giảng dạy và được Người chữa lành bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”: Tin Mừng được rao giảng không phải cho một ít người hay chỉ dành cho dân Do thái… nhưng là cho hết mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19 ; Cv 1,8).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Tại sao Đức Giê-su lại cấm ma quỉ nói ra sự thật: Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì người Do Thái lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như Môi-sê đã từng ra tay cứu con cháu Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập xưa. Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su theo Ý Chúa Cha lại không nhằm đáp ứng ước mong của người Do Thái. Sứ mệnh ấy đã được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ nghèo khó, công bố cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù đày, áp bức bất công… một thời đại mới đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc 4,18-19). Do đó, Đức Giê-su không muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà Người đã lãnh nhận. Nếu để chúng tuyên xưng Người là Đấng Thiên Sai khi chưa kịp chuẩn bị cho dân chúng hiểu đúng sứ mệnh Thiên Sai ấy, thì họ sẽ bắt Người tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu diệt toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng minh sự e dè này là có cơ sở: Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức, đã nổi dậy chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối cùng họ đã chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt cháy cả đền thờ, tàn sát quân lính còn sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương, phân tán đi khắp nơi trên thế giới. Tai họa này đã được Đức Giê-su tiên báo cho các môn đệ biết và dùng nó như một hình ảnh để mặc khải về ngày tận thế. Người cũng dạy cho các môn đệ biết phải làm gì để có thể tồn tại trong những ngày ấy (x. Mt 24,15-21).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su là Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với Chúa Cha?
ĐÁP:
Đức Giê-su chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng Người lại có hai bản tính: Một là Thiên Chúa, hai là loài người. Là “Con Thiên Chúa”, Đức Giê-su cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giê-su đại diện cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh Giê-su, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39) Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ.
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ CỦA CẦU NGUYỆN: TIẾNG CÒI “YÊN LẶNG”
Một hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác… Bấy giờ điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc ích kỷ hại nhân. Cần làm những điều “tốt đạo đẹp đời” như làm cho mọi người đều có cơm ăn áo mặc, sống vui tươi hạnh phúc hơn và xứng đáng với nhân phẩm hơn…
2) GIÁ TRỊ CỦA CẦU NGUYỆN: LÀNH BỆNH NHỜ CÓ BÌNH AN TRONG TÂM HỒN:
Trong cuốn “Những biến cố trong cuộc đời một bác sĩ”, tác giả là bác sĩ Pôn Tô-mi-ê (Paul Toumier) đã thuật lại câu chuyện sau: “Kết quả cuộc xét nghiệm máu của một bệnh nhân cho thấy anh ta bị chứng thiếu máu trầm trọng. Vì thế tôi đã làm giấy để chuyển anh ta đến Văn Phòng Y Tế Quận để xin nơi đây cho anh được nghỉ việc một thời gian có ăn lương, đồng thời cũng xin Quĩ Bảo Trợ Công Nhân Viên cho phép anh được đi nghỉ 2 tuần để dưỡng bệnh. Nhưng sau đó ba hôm, bệnh nhân kia đã quay lại bệnh viện và đưa cho tôi lá thư của anh bác sĩ bạn tôi, đang làm việc tại Văn Phòng Y Tế. Nội dung lá thư ấy như sau: “Theo đề nghị của anh, tôi đã làm mọi thủ tục để bệnh nhân của anh được nghỉ việc và được đi dưỡng bệnh. Nhưng bệnh nhân lại khai là anh ta đã được khỏi bệnh rồi. Nhưng tôi không tin, và đã cho tái xét nghiệm máu, và quả thật tôi rất ngạc nhiên khi thấy kết quả lần xét nghiệm mới này lại không ăn khớp với kết luận trong bệnh án mà anh đã gửi cho tôi. Vậy đề nghị anh tiến hành xét nghiệm máu thêm một lần nữa trước khi kết luận chính xác về trường hợp đặc biệt này”.
Thật là ngoài sự tưởng tượng của tôi: Kết quả xét nghiệm máu cuối cùng này đúng như lời khai của bệnh nhân là anh ta đã hoàn toàn khỏi bệnh. Tôi hỏi bệnh nhân có uống thuốc hay sử dụng phương thức điều trị nào trong mấy ngày qua không? Anh ta quả quyết là không. Nhưng rồi anh ta cho biết trong mấy ngày vừa qua, mỗi ngày anh ta đã dành ra một tiếng đồng hồ để cầu nguyện với Chúa, và cũng nhờ bầu khí thinh lặng cầu nguyện mà anh ta đã bắt tay hòa giải được với một kẻ đã từng vu khống làm hại anh, khiến anh rất uất ức và quyết tâm trả thù. Giờ đây sau khi làm hoà, anh cảm thấy tâm hồn thanh thản và bình an. Rồi tác giả kết luận: Có nhiều chứng bệnh thể lý sẽ được chữa trị dễ dàng hơn một khi chứng bệnh trong tâm hồn được chữa lành trước.
3) PHẢI CẢI TẠO THẾ GIỚI BẮT ĐẦU TỪ BẢN THÂN MÌNH:
Vào lúc sắp chết, một nhà hiền triết đã khiêm tốn thú nhận như sau: “Lúc thiếu thời, tôi là một người đầy nhiệt huyết và có ước vọng cao. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ, tôi đã xin Chúa cho mình có khả năng để cải tạo thế giới nên tốt, nghĩa là: không còn chiến tranh thù hận do những tranh chấp về quyền lợi giữa các quốc gia. Khi đã sống được nửa đời người, tôi tự xét và thấy mình vẫn chưa làm được điều gì đáng kể, chưa làm được gì để giúp cho thế giới được tốt hơn! Tôi đành đổi lại lời cầu nguyện cho phù hợp với thực tế như sau: “Lạy Chúa, con chỉ dám xin Chúa giúp con cải tạo những người thân và bạn bè chung quanh con nên tốt hơn mà thôi”. Nhưng rồi khi về già, thời gian sống chẳng còn được bao lâu, tôi tự xét và thấy mình đã quá ảo tưởng khi muốn cải tạo tha nhân. Vì trong suốt thời gian qua, tôi đã chẳng làm được gì giúp ích cho tha nhân, và cũng chẳng biến đổi được một ai nên tốt lành hơn! Và một lần nữa, tôi đành phải thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con biến đổi chính bản thân con”. Giả như ngay từ tuổi thanh xuân tôi đã biết cầu nguyện khiêm tốn và quyết tâm tự cải tạo trước hết từ bản thân mình, thì có lẽ giờ đây tôi đã không phải hối tiếc vì đã sống cả một đời vô ích!
3. THẢO LUẬN: 1) Theo bạn thì nhà hiền triết trong câu chuyện trên quyết định rút bớt những điều quyết tâm là đúng hay sai? Câu: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” hiện nay còn có giá trị không? Tại sao? 2) Nếu bạn muốn góp phần vào việc cải thiện xã hội cho an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn… thì phải bắt đầu từ đâu và bằng cách nào?
4. SUY NIÊM:
Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc vất vả của Đức Giê-su từ sáng sớm đến tối đêm. Qua đó, Đức Giê-su đã nêu ra những chỉ dẫn để thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.
1) Cần phải chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng:
Ngày Sab-bát, Đức Giê-su đến Hội đường thành Ca-phác-na-um và được mời đọc Sách Thánh và giải nghĩa Kinh Thánh. Sứ vụ loan báo Tin Mừng là một phần quan trọng của đời sống người môn đệ Đức Giê-su. Những ai muốn làm môn đệ của Đức Giê-su phải hăng say rao giảng Lời Chúa cho mọi người, để nhờ lắng nghe và thực hành Lời Chúa, người ta mới biết sự thật về Thiên Chúa, biết được con đường mình phải đi. Bấy giờ Lời Chúa sẽ trở thành ánh sáng soi đường hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hành động của người tín hữu giúp họ có Sự Sống đời đời. Mỗi người tín hữu cần ý thức sứ vụ của mình là loan báo Tin Mừng như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16)
2) Tin Mừng phải hướng đến việc giải thoát con người:
Ma quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người sẽ bị mất hết ý chí, không thể tự làm điều lành, mà luôn phải làm theo lệnh truyền của ma quỉ. Tin Mừng của Đức Giê-su có sức mạnh giải thoát con người khỏi sự trói buộc của ma quỉ, khỏi những phong tục mê tín lạc hậu. Nhờ đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá làm con Thiên Chúa. Bà nhạc của Si-mon là một bằng chứng: Khi được giải thoát khỏi bệnh sốt, bà liền trỗi dậy làm bữa ăn phục vụ Chúa va các tông đồ.
3) Tin Mừng phải được loan báo nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp:
Sáng sớm, Đức Giê-su đã ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Người đã vất vả cả ngày để rao giảng chữa bệnh và trừ quỷ, nên Người đã dành riêng buổi sáng sớm để cầu nguyện với Chúa Cha. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của cầu nguyện. Đức Giê-su cầu nguyện vì muốn được kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, để tìm thánh ý Chúa Cha và để có nguồn sức mạnh giúp cho các hoạt động loan báo Tin Mừng. Các tín hữu hôm nay muốn dấn thân thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, mở mang Nước Trời cũng phải biết noi gương Đức Giê-su cầu nguyện để đón nhận được sức mạnh từ nơi Chúa Cha. Việc chăm chỉ học sống Lời Chúa rất cần để hiểu biết thánh ý Thiên Chúa và chia sẻ tình thương của Chúa cho tha nhân.
4) Quảng đại cho đi là phương thế loan Tin Mừng hữu hiệu nhất:
Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su sau khi ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, đã chữa khỏi bệnh sốt cho bà mẹ vợ của ông Phê-rô, đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong dân. Chúng ta dù có đang bị đau khổ, thì cũng sẽ được vơi bớt nếu biết mở rộng lòng để cho đi, biết ra khỏi mình để đến với tha nhân. Sức nặng của thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng nếu chúng ta biết đến cầu nguyện với Chúa Giê-su và biết quên mình xoa dịu nỗi đau của tha nhân. Không ai quá nghèo đến độ không thể cho đi một điều gì đó: Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ động viên, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm manh áo cho người nghèo khó kèm theo tấm lòng yêu thương… Chính trong lúc cho đi là lúc chúng ta sẽ được nhận lại như lời Chúa Giê-su: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) và như lời cầu trong kinh hoà bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con! Xin cho thần kinh con đang suy nhược được mạnh mẽ, cho gân cốt con đang rệu rã được hồi phục, cho trái tim con đang lo buồn được an ủi, cho tâm hồn con đang xáo trộn được bình an… Xin dạy con biết dừng lại công việc đang làm trong vài ba phút ngắn ngủi để con trở về đối diện với lòng mình, lắng nghe lời Chúa và từ đó rút ra sự can đảm mới, sức mạnh mới và nguồn sống mới để đạt được kết quả tốt hơn. Lạy Chúa, xin hãy dừng bước chân con!
X. HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ. XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH – HHTM