Home / Chia Sẻ / Suy niệm Tin mừng Chúa nhật 29 Thường niên- Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, năm B, của LM Giuse Đỗ Văn Thụy

Suy niệm Tin mừng Chúa nhật 29 Thường niên- Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, năm B, của LM Giuse Đỗ Văn Thụy

 NGÀY KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

NĂM 2018

 

 

1.Niềm Tin trong đời sống Kitô hữu

1.1.Vậy Niềm Tin đó như thế nào

1.1.1.Niềm Tin trong đời thường

1.1.2.Niềm Tin Tôn Giáo

1.2.Sự khác biệt giữa Niềm Tin và Đức Tin

1.2.1.Niềm Tin (la confiance – confidence)

1.2.2.Đức Tin (La Foi – Belef)

 

  1. Được lôi cuốn và được sai đi”

2.1.Được lôi cuốn và được sai đi” qua vụ nổ trái bom nguyên tử

2.2.Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật Léonard Cheshire

2.3.Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật bác sĩ Takashi Nagai

2.3.1.Tín đồ của chủ nghĩa duy vật

2.3.2.Những vinh dự sau cùng

2.3.3. Những giờ phút sau cùng

 

3.Lời khích lệ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo

 

NGÀY KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO

NĂM 2018

NKNTG

1.Niềm Tin trong đời sống Kitô hữu

Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo năm nay nói với chúng ta rằng: Các con đừng sợ Đức Kitô và Giáo Hội của Ngài! Vì ở đó chúng ta tìm thấy kho tàng vốn lấp đầy cuộc sống bằng niềm vui. Cha có thể nói với các con từ kinh nghiệm riêng của Cha: nhờ Niềm Tin, Cha đã tìm thấy một nền tảng chắc chắn cho những giấc mơ của Cha và sức mạnh để thực tại hoá chúng. Niềm Tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết trên thập giá và đã sống lại vì chúng ta. Sự thật này mời gọi sự tự do của chúng ta và thách đố chúng ta hãy tìm kiếm, khám phá và loan báo. Cha muốn suy tư với các con về sứ mạng mà chúng ta đã nhận lãnh từ Đức Kitô. Trong khi nói với các con, Cha cũng nói với hết mọi Kitô hữu đang sống hành trình đời mình trong Giáo Hội với vai trò là con cái của Thiên Chúa. Điều dẫn Cha đến việc nói với mọi người qua cuộc trò chuyện này với các con là là sự chắc chắn rằng Niềm Tin Kitô Giáo vẫn hằng luôn trẻ khi nó mở ra cho việc truyền giáo mà Đức Kitô ủy thác cho chúng ta:“Truyền Giáo làm sống động Niềm Tin”,[1] nghĩa là “loan truyền Đức Tin chính là tái tạo sinh lực mới cho Đức Tin”[2]

1.1.Vậy Niềm Tin đó như thế nào

1.1.1.Niềm Tin trong đời thường

Trong cuộc sống, không ít lần ta gặp khó khăn, khiến bản thân ta cảm thấy vô cùng tuyệt vọng, mất phương hướng và không còn tin tưởng vào ai cũng như vào bất cứ điều gì. “Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất Niềm Tin”. Khi gặp khó khăn, trắc trở, chúng ta cần phải đối mặt, cần phải tin rằng ngày mai tươi đẹp sẽ đến. Đó chính là phương pháp giúp ta thoát khỏi những khó khăn, hụt hẫng hoặc thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Chúng ta phải tìm lại Niềm Tin vì Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn.

Niềm Tin chính là nguồn năng lực mạnh mẽ nhất trong việc tạo ra những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Niềm Tin giúp cho chúng ta khơi nguồn những năng lực vốn có, ẩn sâu trong mỗi con người. Vì thế trong cuộc sống, chúng ta cần phải tin tưởng nhau và Niềm Tin giúp cuộc sống trở nên ý nghĩa hơn. Vì ta tin tưởng vào một người nào đó, tức là ta thấy được giá trị đích thực của họ, cho dù giá trị đó đã bộc lộ ra bên ngoài hay vẫn đang tiềm ẩn bên trong. Từ Niềm Tin tự nhiên, chúng ta tiến tới Niềm Tin tôn giáo.

1.1.2.Niềm Tin Tôn Giáo

– Niềm Tin tôn giáo là một dạng nhận thức đặc biệt, dựa trên trực giác, tạo cho con người một Niềm Tin có tính thiêng liêng, giúp người ta có thể nhận thức được những sự vật mà người thường không thấy được, cho ta một sức mạnh đặc biệt mang tính “thăng hoa” để tác động đến cuộc sống trần tục.

– Niềm Tin tôn giáo phải là một niềm tin siêu lý, không dựa vào lý tính, thực nghiệm, một Niềm Tin được cảm nhận hoặc theo truyền thống kinh nghiệm, hoặc do tu luyện dần để khẳng định vững chắc. Đó là một Niềm Tin không cần chứng minh. Người ta tin để rồi tin. Tin vào những điều vĩnh hằng, tuyệt đối, một cuộc sống như ý muốn, cuộc sống bất diệt. Vì lý do đó mà nội dung Niềm Tin tôn giáo phụ thuộc vào những tín điều, giáo lý của từng tôn giáo khác nhau.

1.2.Sự khác biệt giữa Niềm Tin và Đức Tin

Sống trên đời ai ai cũng có Niềm Tin. Nếu không có Niềm Tin, con người chúng ta dễ rơi vào tình trạng lập dị và có khi đi đến chỗ tuyệt vọng, không còn tin tưởng vào ai cũng như bất cứ điều gì. Là người Kitô hữu, chúng ta lại còn có Đức Tin, tin vào một Thiên Chúa cao cả và quyền năng. Nhưng nhiều khi chúng ta lẫn lộn hai từ Niềm Tin

(la confiance – confidence) và Đức Tin (la Foi – Belef).

1.2.1.Niềm Tin (la confiance – confidence)

Ở đây, Niềm Tin là lòng tin, sự tin tưởng vào một người, một sự việc nào đó. Mất Niềm Tin là mất hết tin tưởng, không còn tín nhiệm nữa. Một lần bất tín, vạn lần không tin. Con người lỡ một lần không trung thực, bội tín, sẽ dễ làm cho người khác không còn tin mình nữa.

1.2.2.Đức Tin (La Foi – Belef)

Đức Tin là Niềm Tin vào một tôn giáo, vào một Đấng Siêu Việt và toàn Năng, thậm chí còn dám hy sinh mạng sống vì Đức Tin, vì Đấng họ yêu mến. Cho nên Đức Tin là chấp nhận chân lý của Thiên Chúa theo lệnh của ý chí được Thiên Chúa tác động nhờ ân sủng.[3] Chính vì vậy, Đức Tin là hồng ân của Thiên Chúa, là một nhân đức siêu nhiên do Thiên Chúa ban tặng.[4] 

 

  1. Được lôi cuốn và được sai đi”[5]

Mỗi người nam nữ là một sứ mạng; đó là lý do cho cuộc sống của chúng ta trên mặt đất này. Sứ mạng này gồm “được lôi cuốn và được sai đi”. Đây là hai chuyển động được người trẻ cảm nhận như tình yêu trong tâm hồn họ. Hai chuyển động này còn mang lại cho người trẻ một tương lai đầy hứa hẹn và giúp họ định hướng cuộc đời.

2.1.Được lôi cuốn và được sai đi” qua vụ nổ trái bom nguyên tử

Ngày 9 tháng 8 năm 1945, lúc 11 giơ 02 phứt.

Một tia chóp lóa mắt lóe lên. Nhiệt độ: 9000 độ bách phân. Dưới một luồng gió với vận tốc 2km/giây, Urakami, khu phố phía tây bắc của Nagasaki bị hủy diệt và bốc cháy. Cơ thể của những người đi đường nằm rạp trên đường và hóa thành than. Những cư dân khác bị biến thành tro bên dưới căn nhà bị thiêu rụi. 30.000 người chết, 100.000 người bị thương. Trong số 10.000 người Công Giáo ở Urakami, có 8.500 người đã chết. Tại ngôi trường có 1.800 em học sinh, thì chỉ còn lại 200 em sống sót.

Đại Học y khoa nằm cách trung tâm vụ nổ 700 mét và được xây dựng bằng bê tông cốt thép đã thoát khỏi cuộc tàn phá lúc ban đầu sớm bị hỏa hoạn. Nagai đang sắp xếp các phim chụp tia X vào lúc diễn ra vụ nổ, ông bị ném xuống nền nhà, bên phải bị mảnh vỡ cửa kính đâm thủng lỗ chỗ. Máu chảy xối xả từ bên thái dương phải của ông. Ông lần mò thoát ra khỏi đống kính vỡ vụn và đi xuống cầu thang. Từ phòng khám và hành lang nơi các bệnh nhân đang ngồi chờ, người ta nghe vọng lên tiếng kêu cứu. “Được, chúng tôi đến đây!” Nagai hét to và đưa bàn tay ép mạnh vào thái dương chảy máu.

Việc săn sóc bắt đầu. Những chiếc áo sơ mi rách nát được sử dụng làm băng quấn. Bác sĩ Nagai, tay phải siết chặt thái dương phải làm việc bằng tay trái. Đôi khi mải mê săn sóc người bị thương, ông bỏ tay ra và máu lại phun ra nhuộm đồ trang phục của cô y tá đứng bên cạnh.

“Vì những mạch máu ở thái dương hẹp, nên tôi có thế cầm cự trong ba tiếng đồng hồ. Điều đó cũng đủ để tiến hành công cuộc sơ cứu,” ông nhận xét. Ông vừa làm việc vừa thỉnh thoảng bắt mạch để xem mình còn đủ sức lực hay không.

Thung lũng Urakami nhanh chóng biến thành biển lửa. Ở cửa bệnh viện, những dòng người bị thương chạy đến không dứt: những bóng dáng đẫm máu, áo quần tơi tả, tóc cháy xém. Trẻ con kéo lê các tử thi của cha mẹ chúng, những bà mẹ trẻ ẵm thi thể mất đầu của những đứa bé còn bú. Một cảnh tượng như hỏa ngục.

Phần lớn các loại thuốc men không còn sử dụng được nữa. Chỉ còn một chút ít dụng cụ để sơ cứu…và hàng ngàn người bị thương đang chờ đợi. Nagai chỉ có một vài người phụ tá. “Mặc kệ! Chúng ta sẽ săn sóc cho đến khi sức cùng lực kiệt!”[6]

Takashi Nagai là người chứng kiến và cũng là nạn nhân của trái bom nguyên tử. Còn Leonard Cheschire người ném trái bom nguyên tử thì như thế nào?

2.2.Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật Léonard Cheshire

Léonard Cheshire là viên đại úy trẻ tuổi nhất của nhóm R.A.F… Lúc này anh là vị sĩ quan trẻ nhất nhận được đặc ân hiếm có này, huân chương thập giá Victoria.

Một ngày đẹp trời tháng 8/1945, hai pháo đài bay của Mỹ bay về phía Nagasaki trên bầu trời Thái Bình Dương xanh thăm thẳm, ở khoang lái của một trong hai chiếc phi cơ B.29 có đại úy Cheshire. Anh vừa được thủ tướng Winston Churchill bổ nhiệm làm sĩ quan liên lạc bên cạnh không lực Mỹ ở Viễn Đông.

Một chiếc B. 29 khác vừa bay đến mục tiêu. Khoang hầm phi cơ được mở ra, một quả bom nguyên tử đang đâm bổ xuống thành phố. Một vài giây sau, toàn bộ hải cảng Nagasaki bị hủy diệt.

Báo chí Anh đã hết lời ca ngợi Cheshire. Họ nói về “con người có sức hủy diệt nhất của chiến tranh”, “viên sĩ quan được tuyên dương nhất trong chiến tranh”, “một trong số những nhà chiến lược hàng không tài giỏi nhất”. Cảnh tượng hủy diệt Nagasaki cũng vừa khiến cho người đàn ông này quay lưng lại hoàn toàn. Lúc quay về từ cuộc không tập, Cheshire liền xin từ nhiệm chức vụ sĩ quan của R.A.F.

Sau khi rời khỏi hỏa ngục này, anh quay về với Thiên Chúa xa lạ để cầu xin sự giúp đỡ của Người. Khi trở về Anh quốc, anh luôn nghĩ về việc thực hiện bi thảm của ngành kỹ thuật nhân loại, vấn đề căn bản ám ảnh anh hơn bao giờ hết: vai trò của Thiên Chúa trong cuộc sống của nhân loại là gì? Anh ý thức rằng không những bản thân anh nhưng còn tất cả mọi người phải hướng đến một điều gì cao trọng hơn là một nền vật lý nguyên tử thuần túy.[7]

Ngày lễ Giáng Sinh năm 1948, đại úy Cheshire gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

Ngay sau đó, anh xây dựng ba ngôi nhà dành để săn sóc cho những bệnh nhân bị bỏ rơi không thể chữa trị. Vào lúc này, anh là người trở lại Công Giáo nổi tiếng nhất của nước Anh và hơn thế nữa, một vị tông đồ đáng chú ý.

Từ thập giá Victoria, anh đã đến với thập giá đích thực của Đức Kitô.[8]

2.3.Được lôi cuốn và được sai đi” qua nhân vật bác sĩ Takashi Nagai

2.3.1.Tín đồ của chủ nghĩa duy vật

Takashi Nagai sinh năm 1908 tại Izumo, mãnh đất huyền thoại của Nhật Bản. Chẳng biết chút gì về đạo Công Giáo và đến 1928 anh bị ảnh hưởng chủ nghĩa duy vật khoa học rất thịnh hành tại Nhật Bản lúc bấy giờ. Sau đây là những gì bác sĩ Nagai viết khi nhớ lại những năm tháng này:

 “Từ những năm tháng tràn đầy lòng nhân đạo, tôi đã trở thành tù nhân của chủ nghĩa duy vật. Vừa chân ướt chân ráo bước vào ngành y, tôi buộc phải m xẻ các t thi. Theo người ta cho tôi biết, đó là tất cả những gì tồn tại trong con người. Tôi dễ dàng kết luận là con người không là gì khác ngoài vật chất.

Cơ cấu tuyệt vời của toàn bộ cơ thế, tổ chức t m của những phần nh nhất của nó, tất cả làm cho tôi thán phục. Nhưng cái thứ mà tôi đang s dụng ở đây, đó không ch là vật chất đơn thuần.”

Các cơ quan phức tạp của cơ thể con người, các chức năng tương ứng, mọi thứ đều được giải thích. Vì cớ gì anh có thể chấp nhận sự hiện hữu của một thực tại lờ mờ như “linh hồn” kia chứ! Không phải cơ thể chỉ là sự tổng hợp của những vật đơn giản như ôxy, azốt, canxi… hay sao? Linh hồn ư? Một hồn ma do những kẻ lừa bịp nghĩ ra để đánh lừa những người đơn sơ thôi!

Tuy nhiên, vấn đề cuộc sống con người luôn luôn dầy vò anh. Đôi khi anh cũng quyết tâm tìm kiếm chân lý trong khoa học thực nghiệm. Anh tuyệt đối tách ra khỏi tâm trí bất cứ ý tưởng nào về tâm linh hoặc tôn giáo.

Cái chết bất ngờ của mẹ anh vào năm 1930 đã bứt anh ra khỏi những ảo tưởng đó.[9]

Tháng 6/1934, anh chịu Phép Rửa Tội với tên thánh Phaolô.

2.3.2.Những vinh dự sau cùng

Năm 1949, bộ trưởng “bộ phúc lợi xã hội” trao tặng bằng khen cho Nagai về quyển sách “để lại cho các trẻ em”. Cùng năm đó, ông đề nghị với hội đồng chính phủ tuyên dương bác sĩ theo chương trình nghị sự quốc gia.

Ngày 28/6/1949, hoàng đế Nhật đến thăm ông. Cuộc gặp gỡ rất đơn giản đã để lại trong lòng ông đầy sự thán phục đối với tính cách minh bạch khoa học của hoàng đế, với tư cách là một nhà sinh vật học nổi tiếng.

Ngày 30/6, đến lượt Đức Hồng Y Gilroy, đại diện của Đức Giáo Hòang, đến thăm ông nhân dịp lễ kỷ niệm 400 năm ngày thánh Phanxicô Xaviê đến nước Nhật truyền giáo.

Ngày 1/6/1950, qua sự biểu quyết của Quốc Hội, hoàng đế trao tặng cho ông một chiếc cúp bằng bạc, trong khi thủ tướng gửi đến ông một bức thư có nội dung như sau:

Gi bác sĩ Nagai,

Khen tặng theo chương trình nghị sự

“Giữa muôn vàn nguy hiểm triền miền, ngài đã cống hiến bằng c tâm hồn và thể xác cho việc nghiên cứu khoa y học quang tuyến X. Rốt cuộc ngài mắc bệnh bạch cầu. Luôn luôn miệt mài hăng say trong công việc, ngài đã góp phần vào sự tiến bộ của khoa học và được xem như tm gương cho tất cả mọi người. Bị tổn thương vì bom nguyên t và bắt buộc phải nằm liệt giường, ngài đã cống hiến toàn bộ sức lực cho việc biên soạn nhiều tác phm, ni bật nhất là tác phẩm “những quả chuông ở Nagasaki” và “để lại cho các trẻ em”. Ngài đã đóng góp tích cực vào việc giáo dục xã hội cho những người đồng hương. Trong niềm tin đó, chúng tôi khen ngợi ngài.”

Thủ tướng

Shigeru Yoshida

Và sau đây là bức thư phúc đáp của bác sĩ Nagai:

“Chiếc cúp và bức thư mà ngài gửi đến cho tôi là một niềm vui dành cho Thiên Chúa, những người thân và các con của tôi. Mặc dù bn thân tôi không xứng đáng, tôi cũng xin vui mừng đón nhận.

Nếu như công việc của tôi có góp phần vào việc tái thiết nước Nhật, điều đó có được là nhờ sự hướng dẫn của Thiên Chúa, nhờ sự giúp đỡ của những người đồng loại và nhờ lòng hiếu thảo của các con tôi. Tôi ch là một tôi tớ vô dụng, mọi vinh quang đều thuộc về Thiên Chúa.

Về niềm vinh dự dành cho tôi, tôi nghĩ đúng hơn nó nên dành cho những người đồng hương ca tôi ở Nagasaki. Trên cánh hoang tàn đổ nát do bom nguyên t để lại, chính họ là những người xây dựng một trung tâm của nền văn minh có ánh hưng sâu rộng trên thế giới.

Sự khích lệ mà ngài ban cho tôi đồng thời cũng ban cho tôi sức mạnh mới để làm việc với tất cả khả năng của tôi trong việc xây dựng hòa bình đế đáp lại lòng mong đợi của ngài.”

Takashi Nagai.

Biết được quyết định của hội đồng chinh phủ, Đức Thánh Cha Piô XII cũng san sẻ niềm vui với bác sĩ và gửi đến ông Phép Lành Tòa Thánh.[10]

2.3.3. Những giờ phút sau cùng

Tháng 3/1951, tình trạng sức khỏe của bác sĩ Nagai trở nên nghiêm trọng. Ngoài sự suy nhược cực độ, lá lách sưng to làm bụng phình to đến mức không cho phép ông trở mình trên giường, nếu không có sự giúp đỡ. Bạch cầu với số lượng 7.000 nơi người bình thường, đã đạt đên 330.000. Nagai, người đã nghiên cứu kỹ sự phát triển của căn bệnh trên chính cơ thể của mình, không thể không cảm thấy giờ ra đi của ông sắp đến.

Điều đó không ngăn cấm ông tha hồ biểu lộ óc khôi hài quen thuộc, đến mức những người đến thăm ông khó mà hình dung họ đang đứng trước một người đang hấp hối.

Tháng 4, ông viết quyển sách cuối cùng. Sau khi quyển sách vừa hoàn tất, một cơn xuất huyết lại bộc phát làm tê liệt toàn bộ cánh tay.

Ngày 28/4, lại xảy ra đợt xuất huyết lần thứ hai. Bị dằn vặt đau đớn, bác sĩ đề nghị chích một mũi móc phin. Mũi đầu tiên cho đến giờ phút này.

Người ta quyết định cho ông nhập viện. Buổi sáng vào bệnh viện, ngày 30, ông lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Dù rất khát, suốt cả đêm, ông không muốn uống gì, mặc dù ông được phép uống vì là bệnh nhân.

Ở bệnh viện, cơn đau của ông càng trầm trọng thêm, rồi Nagai đi vào hôn mê. Lúc tỉnh lại, ông kêu lên thật to:

 “Giêsu, Maria, Giuse”, rồi vi giọng nói khe khẽ “con xin phó dâng linh hồn con trong tay các Ngài”. Một nữ y tá đưa một cây Thánh Giá cho Makoto để anh trao lại cho cha. Vừa đưa bàn tay trái còn cử động cầm lấy Thánh Giá, Nagai vừa thì thào: “con hãy cầu nguyện… “ ông tắt th.

Ông cầm trong tay tràng chuỗi Mân Côi được kết bằng những hạt ngọc đen do Đức Thánh Cha trao tặng và cây Thánh Giá Makoto vừa trao.

Trên gương mặt người chết còn phảng phất một nụ cười nhẹ nhàng. Ông hưởng dương 43 tuổi. Nguyên nhân trực tiếp của cái chết: suy tim do bệnh bạch cầu. Trái tim mà Nagai đã bắt nó dâng hiến cho đến hơi thở cuối cùng đã ngừng đập.[11]

3.Lời khích lệ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhân ngày Khánh Nhật Truyền Giáo

Cha cám ơn tất cả các nhóm trong Hội Thánh giúp cho các con có thể gặp gỡ Đức Kitô sống động trong Hội Thánh: các giáo xứ, các hiệp hội, các phong trào, các dòng tu, và nhiều hình thức phục vụ truyền giáo khác nhau.

Có biết bao nhiêu người trẻ coi hoạt động truyền giáo tự nguyện là một cách để phục vụ những anh chị em “bé mọn nhất” của chúng ta (xem Mt 25,40), thăng tiến phẩm giá con người và làm chứng cho niềm vui của tình yêu và của tư cách là Kitô hữu! Các kinh nghiệm này của Hội Thánh không chỉ giáo dục và đào tạo những người trẻ để họ thành công trong nghề nghiệp, mà còn để họ phát triển và nuôi dưỡng những ân huệ Chúa ban hầu phục vụ tha nhân tốt hơn. Các hình thức rất đáng khen ngợi của việc phục vụ truyền giáo nhất thời này là một sự khởi đầu hiệu quả, và nhờ việc phân định ơn gọi, chúng có thể giúp các con quyết định hiến mình hoàn toàn cho công việc truyền giáo.[12]

LM Giuse Đỗ Văn Thụy

 

 

 

 

[1] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018

[2] Redemptoris Missio, 2

[3] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số155

[4] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo số 153

[5] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018

[6] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 1, trg.132-133

[7] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 3, trg.181-183

[8] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo 3, trg.175-177

 [9] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo, tập I, trg.124-125

[10] Nguyễn Thành Thống, Những người trở lại Công Giáo, tập I, trg.143-144

[11] .Yakichi Kataoka 

[12] Sứ điệp ngày Thế Giới Truyền Giáo lần thứ 92 năm 2018

Xem thêm

Lc 2, 1-14

SUY NIỆM TIN MỪNG LỄ ĐÊM GIÁNG SINH, CỦA LM ANTÔN NGUYỄN VĂN ĐỘ

Cửa Thánh mở – Niềm vui Chúa ra đời SUY NIỆM ĐÊM GIÁNG SINH (Lc …