Home / Suy Niệm Lời Chúa / Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 1 Mùa Vọng năm A của Lm PX Vũ Phan Long, ofm

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật 1 Mùa Vọng năm A của Lm PX Vũ Phan Long, ofm

KHÔNG MỘT AI BIẾT NGÀY GIỜ

Chúng ta nhớ rằng chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm trước mặt Người.

 

1.- Ngữ cảnh

Khối diễn từ cuối cùng gồm trọn chương 23 Mt, “Những lời nguyền rủa người Phariêu”, trước đây vẫn được coi như tách biệt, và phân đoạn Mt 24,1–25,46, “Diễn từ cánh chung”: Cả khối từ câu 23,1 đến câu 25,46 làm thành bài diễn từ duy nhất có chức năng nhắc nhở những người trong nhà sống một đời sống trung thực với những hành vi, công bình, nhân ái, dưới ánh sáng của cuộc chiến thắng cánh chung của Thiên Chúa và cuộc phán xét đang đến.  Bài Tin Mừng Mt 24,37-44 nằm trong khối diễn từ cuối cùng này.

Phụng vụ cho đọc từ c. 37, nhưng có lẽ nên đọc bản văn ngay từ câu 36, vì: 1) Tư tưởng của câu 36 này được trình bày trong cc. 37-44; 2) Hai từ ngữ “ngày và giờ” trong c. 36 được nhắc lại trong cc. 42 và 44 làm thành một lối hành văn “đóng khung”, khiến cả phân đoạn 24,36-44 thành một đơn vị thống nhất. Các nhà chú giải thường cắt phân đoạn ở c. 36 thay vì ở c. 37 như trong bản văn Phụng vụ.

 

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Bài học thời Nôê (24,37-39), với công thức “cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” ở c. 37 và c. 39 đóng khung đoạn văn thành một đơn vị; đơn vị này xoáy vào trọng tâm là “ngày Quang Lâm của Con Người”;

2) Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (24, 40-41): Hai câu này vừa là kết luận cho đoạn 37-39, vừa là tiền đề (và cũng là kết luận) cho lời kêu gọi và dụ ngôn ở cc. 42-44;

3) Bài học về canh thức và sẵn sàng (24,42-44), với dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya”, được đóng khung thành một đơn vị bằng hai công thức tương tự “ngày Chúa của anh em đến” (c. 42) và “giờ Con Người sẽ đến” (c. 44); đơn vị này xoáy vào hai từ cụ thể được tác giả Mtdùng để gọi ngày Quang Lâm, “ngày và giờ”.

 

3.- Vài điểm chú giải

– thời ông Nôê (37): Kinh Thánh kể việc Nôê đóng tàu trong sách Sáng thế (6,11-13).

– quang lâm (37.39) (HL: parousía, nghĩa đen là “sự hiện diện”): Trong Mt 24,29-31, Đức Giêsu cho biết rằng Người sẽ trở lại “uy nghi” (= với quyền lực), “ vinh hiển” (= với vinh quang), “ngự giá mây trời” (= trên mây trời). Các hình ảnh đó cho hiểu Người sẽ trở lại trong tư cách Đấng chiến thắng. Đây là một cuộc khải hoàn.

– một người được đem đi, một người bị bỏ lại (40.41): Hai động từ của bản văn Hy Lạp ở thái bị động paralambanetai và aphietai nên phải hiểu chủ ngữ là Thiên Chúa. Dựa theo truyền thống, có thể hiểu: sự kiện các thiên thần “tập hợp những kẻ được [Con Người] tuyển chọn” (c. 31; x. Mc 13,27) cho thấy paralambanetai (P: est pris; A: will be taken) có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi”, aphietai (P: est laissé; A: will be left) có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.

– canh thức (42) (HL: grêgoreô): có nghĩa là “không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giêsu yêu cầu phải có nơi những người đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13; Mc 13,33-37; Lc 12,35-40). Sự canh thức, ở trong tình trạng “báo động”, giả thiết phải có một niềm hy vọng vững chắc và đòi hỏi tâm trí luôn sẵn sàng (đây cũng là “sự tiết độ”: 1 Tx 5,6-8; 1 Pr 5,8). 

– không biết ngày nào (42): Đức Giêsu vừa khẳng định mạnh mẽ rằng Người sẽ lại đến, vừa nhấn mạnh rằng không ai biết được ngày giờ đó (24,36.42.44). Không ai biết và cũng không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.  

– kẻ trộm (43): Kinh Thánh dùng hình ảnh tên trộm để nói tới tính bất ngờ của ngày Chúa đến (x. 1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15).

– vào canh nào (43): Một đêm thường được chia thành bốn canh (HL: phylakê): chiều (từ khi mặt trời lặn đến 9g tối), nửa đêm (từ  9g tối đến 12g đêm), khi gà gáy (từ 12g đêm đến 3g sáng) và sáng (từ 3g sáng đến bình minh, khoảng 6g sáng).

– khoét vách (43): Nhà dân Do Thái thời Đức Giêsu thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.

 

4.- Ý nghĩa của bản văn

Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay, nếu không được hiểu đúng, sẽ gây khó khăn cho chúng ta.

Trước tiên, can phải xem Đức Giêsu đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện: ông Nôê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang xay bột, và một tên trộm? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24: ở đây Đức Giêsu đang nói về những dân cư Giêrusalem không muốn hoán cải. Các môn đệ sửng sốt vì những lời Thầy nói, đã hỏi Người hai điều: khi nào chuyện ấy xảy ra và có dấu hiệu báo trước chăng (cc. 2-3). Thay vì trả lời họ, Đức Giêsu dạy họ những điều đến hôm nay vẫn còn giá trị: chúng ta phải luôn luôn canh thức. Rồi Người đưa ra ba ví dụ.

 

* Bài học thời Nôê (37-39)

Vào thời Nôê, có hai hạng người: những người chỉ biết hưởng thụ cho bản thân và những người tỉnh thức biết lắng nghe các lời lưu ý.

Những người hoàn toàn để mình bị cuốn hút vào trong cuộc sống trần thế, với những sinh hoạt cụ thể và những phương diện bề ngoài ai cũng thấy được (ăn uống, cưới vợ lấy chồng), thì chỉ biết vui hưởng đời này, không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Vả lại, nạn hồng thủy chỉ được loan báo, chứ chưa xảy ra. Cũng thế, cuộc Quang Lâm của Chúa Giêsu cũng chỉ mới được loan báo, chứ chưa xảy ra. Tính cụ thể của các sự việc trần thế và kinh nghiệm hiện tại dường như thực hữu hơn là bản thân Đức Chúa như Người đã loan báo. Do đó, người ta bị hút vào hiện tại và hoàn toàn không màng đến Người, không nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với Người. Dù sao, biến cố quan trọng ấy cũng đã được loan báo, nên chúng ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng bản thân khi Người đến. Cần phải luôn canh thức và sẵn sàng.

Bài học là: Vào thời Nôê, nhiều người đã bị chết; vậy những kẻ không chấp nhận Đức Giêsu hoặc tuân theo lời Người, cũng sẽ chết khi thành thánh bị tàn phá. Còn những ai đón nhận sứ điệp của Người, sẽ được cứu độ và sẽ trở thành những người đầu tiên thuộc đoàn dân Người.

 

* Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (40-41)

Với ví dụ thứ hai rút ra từ cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong các sinh hoạt trần thế, và không một hoàn cảnh bên ngoài nào bảo đảm cho người ta có một tư cách xứng đáng cả. Về bề ngoài, không có nét nào phân biệt giữa hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu quang lâm, sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn: những ai đã sẵn sàng với Người thì được đón vào sống hiệp thông với Người, còn những người khác thì bị loại trừ. Số phận vĩnh viễn của mỗi người tùy thuộc cách thức mỗi người sống với Người trong thời gian này. Từ chỗ thấy rằng mọi người đều có phần công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và chết, người ta dễ rơi vào ảo tưởng là sự vâng phục hoặc bất phục tùng đối với Thiên Chúa, sự ngay thẳng hay gian tà không hề quan trọng gì cả, là mọi sự đều như nhau, chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì mọi sự sẽ kết thúc giống nhau cho mọi người! Đức Giêsu điều chỉnh lối suy tư sai lạc này.

Bài học là: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c. 42).

 

* Bài học về canh thức và sẵn sàng (42-44)

Đến đây, Đức Giêsu cho ví dụ thứ ba. Nếu chúng ta biết ngày giờ Chúa đến, hẳn là chúng ta sẽ chuẩn bị và chờ đợi. Nhưng Đức Giêsu dùng dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya để báo cho chúng ta rằng Người sẽ đến thật bất ngờ, chúng ta không thể tiên liệu. Do đó, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, từng giờ từng phút: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c. 44).

Tất cả những lời kêu gọi tỉnh thức này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay? Phải chăng Thiên Chúa thật sự đến như một kẻ trộm, và gọi người ta đến mà xét xử vào lúc họ ít sẵn sàng nhất? Thật khó mà đặt lòng tin vào một vị Thiên Chúa như thế! Nếu đây là cách giải thích đúng các lời nói của Đức Giêsu, hẳn là chúng ta sẽ không có một sứ điệp cứu độ, mà chỉ có một lời đe dọa ác độc. Thật ra điều Người muốn nói với chúng ta hoàn toàn khác hẳn.

Trong mỗi khoảnh khắc, chúng ta phải sống một cuộc sống phù hợp với ý muốn của Người và có thể lãnh trách nhiệm trước mặt Người. Chính vì Người không cho thấy tất cả ý định của Người mà chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Người. Sự kiện lúc này Người còn đang ẩn mình và rất “ở yên” không được khiến chúng ta bị lừa. Như thế, điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay là Người luôn luôn muốn cứu chúng ta, làm cho chúng ta hạnh phúc, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về sự hiện diện của Người.

 

+ Kết luận

Theo kinh nghiệm thông thường, người ta cho rằng chính loài người và các sức mạnh thiên nhiên 
quy định dòng lưu chuyển của từng số phận con người và toàn thể lịch sử nhân loại. Quan niệm này khiến người ta nghĩ rằng sự việc vẫn cứ tiếp tục như thế, trừ phi là xảy ra một tai họa trên toàn thể vũ trụ. Nhưng Đức Giêsu lại đến loan báo rằng Nước Trời đã gần kề, có nghĩa là Thiên Chúa dứt khoát quyết định bung mở quyền chúa tể của Ngài ra (x. 4,17). Điều này sẽ được thể hiện khi Con Người đến với quyền lực và vinh quang Thiên Chúa (24,30). Khi Người tỏ mình ra vĩnh viễn cho hết mọi người với quyền lực thần linh của Người trước toàn thể thế giới, mỗi người sẽ xuất hiện ra trước mặt Người trong chiều hướng và giá trị đã đạt được. Với biến cố Đức Giêsu đến vĩnh viễn, mỗi người cũng sẽ đạt tới ánh sáng trong bản chất thâm sâu của mình. Mỗi người bị liên kết sâu xa với ngày Đức Giêsu trở lại, do đó phải sống trọn cuộc đời trong chiều hướng này. Và bởi vì không một ai biết chính xác ngày giờ Người trở lại (24,36.42.44), mỗi người cần luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Người khi Người lại đến.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Đức Giêsu khẳng định là không một ai có thể biết được ngày giờ Người trở lại trần gian và tính toán để tìm ra ngày giờ ấy. Do đó, điều hết sức hệ trọng là luôn sẵn sàng cho biến cố ấy, tức là lưu ý đến tính bất xác, tính bất khả tri và bất khả tiên liệu của ngày giờ đó, hầu tránh được lối sống mù quáng. Chúng ta vẫn đang hy vọng Người trở lại. Nhưng đây không phải là một nỗi niềm chờ mong khắc khoải, mà là một xác tín rằng Người cũng là Đấng đã đến và đang đến sống giữa chúng ta: chính Người đang và sẽ đưa lại ý nghĩa chân thật cho cuộc đời và vũ trụ chúng ta.

2. Vì đã được Đức Giêsu dạy là không thể tìm ra đáp án cho các câu hỏi “khi nào và cách nào”, người Kitô hữu chỉ càng chăm chú sống y như thể ngày đó đang đến rồi. Tuy nhiên, canh thức và sẵn sàng không có nghĩa là cứ đưa mắt nhìn về trời! Lời Chúa mời gọi chúng ta quan tâm đến những nhiệm vụ hằng ngày chúng ta đã và sẽ đảm nhận. Sống và làm việc đúng như Người đã giáo huấn chúng ta, đó là cách thức tốt nhất để đón Người vào ngày Người trở lại. Sự canh thức càng có tính thúc bách khi chúng ta không biết giờ cùng tận. Tiếng hô của bài Tin Mừng: “Anh em hãy sẵn sàng! Hãy canh thức!” phải vang lên trong tim của những người đang chờ mong cuộc gặp gỡ vĩ đại.

3. Nhìn bề ngoài, không có dấu chỉ nào giúp phân biệt người đang sống đúng thánh ý Thiên Chúa và người không sống như thế, khi mà ai nấy đều đang sống chìm vào giữa những thực tại trần gian. Do đó, chúng ta không được nhìn vào người khác để lượng định bản thân và nhất là để mình rơi vào một thứ yên tâm giả tạo. Tốt nhất là hãy nhớ lại các giáo huấn Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, rà soát xem chúng ta đã đưa ra thực hành như thế nào. Bài Giảng trên núi trong TM Mt chính là một cẩm nang giúp người Kitô hữu sống canh thức và sẵn sàng. 

4. Chúng ta nhớ rằng chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm trước mặt Người. Đức Giêsu đến vào Ngày Quang Lâm không còn phải là trong tư cách Đấng Cứu thế, nhưng trong tư cách vị Thẩm Phán tối cao. Do đó, ngày Người đến sẽ là ngày giờ của sự thật, bởi vì sẽ là ngày giờ để trả lời (“trả lẽ”) với Người về những nhiệm vụ chúng ta phải chu toàn và là ngày giờ chúng ta được vén mở (= mạc khải) cho hiểu biết mọi sự.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …