CHỌN LỰA
Đệ nhất phu nhân Eleanor Roosevel (1884 – 1962), cũng là nhà nhân đạo kiêm nhà hoạt động xã hội Mỹ, đã nhận định: “Triết lý của một người không được thể hiện tốt nhất bằng ngôn từ, mà được thể hiện trong cách chọn lựa. Cách chọn lựa của chúng ta chính là trách nhiệm của chúng ta”. Chọn lựa rồi thì phải sống điều đó, chứ không thể chọn lựa cho xong lần rồi thôi.
Thiên Chúa cho con người có quyền tự do chọn lựa, đó là niềm vui mừng và hãnh diện – vì chúng ta được Thiên Chúa tôn trọng cả nhân phẩm, nhân vị và nhân quyền; nhưng đó cũng là nỗi lo sợ – vì chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về những gì chúng ta chọn lựa.
Muốn chọn lựa phải có ít nhất hai cái – cái này hoặc cái kia, cách này hoặc cách nọ. Có một thứ thì không thể có sự chọn lựa. Tư tưởng dẫn tới hành động, đó là sự chọn lựa. Cách chúng ta chọn lựa có thể trở nên “số phận” của chúng ta – an vui hạnh phúc hoặc nghiệt ngã khổ đau. Đó là điều tất yếu từ sự tự do của chúng ta!
Ngôn sứ A-mốt đã có thị kiến thứ tư, Thiên Chúa hỏi ông thấy gì, ông nói ông thấy “giỏ trái cây mùa hạ”. Thiên Chúa cho ông biết rằng Ngài sẽ không tha thứ cho dân Ít-ra-en nữa, vì họ gian tham, tội lỗi. Dân Ít-ra-en đã bất tuân, bất tín và bất trung với Thiên Chúa mà quyết định chọn lối gian tà. Họ không nhận được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là điều tất yếu. Chúng ta cũng vậy mà thôi!
Ngôn sứ A-mốt truyền lại lời của Thiên Chúa: “Hãy nghe đây, hỡi những ai đàn áp người cùng khổ và tiêu diệt kẻ nghèo hèn trong xứ” (Am 8:4). Có lời cảnh báo đó vì họ đã thầm nghĩ: “Bao giờ ngày mồng một qua đi, cho ta còn bán lúa; bao giờ mới hết ngày sa-bát, để ta bày thóc ra? Ta sẽ làm cho cái đấu nhỏ lại, cho quả cân nặng thêm; Ta sẽ làm lệch cán cân để đánh lừa thiên hạ. Ta sẽ lấy tiền bạc mua đứa cơ bần, đem đôi dép đổi lấy tên cùng khổ; cả lúa nát gạo mục, ta cũng đem ra bán” (Am 8:5-6).
Người ta nói “buôn gian, bán lận”, nghề nào cũng có mánh lới của nghề đó, càng ngày càng tinh vi hơn: thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ. Ngày nay, giai cấp nào hoặc ngành nghề nào cũng có cách gian lận ranh mãnh, ngay cả một số “ông trùm” của xứ đạo cũng “lóm lém” như thường, nói chi đến người ngoại đạo. Thảo nào, một nữ kế toán về chương trình cứu trợ của nhà nước ở Bình Phước mà mưu mô chiếm đoạt đến hơn 3 tỷ đồng. Quả thật, “thường nhân” chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi sự lươn lẹo của các “siêu nhân” theo phe ma quỷ!
Và rồi ngôn sứ A-mốt đã xác định rằng “Đức Chúa đã lấy Thánh Danh là niềm hãnh diện của Gia-cóp mà thề: Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng” (Am 8:7). Ai tốt hay xấu thì Thiên Chúa đều tỏ tường, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Ngài im lặng chứ đừng tưởng Ngài không biết mà… làm tới, hoặc dám lấy vải thưa che mắt thánh!
Kinh Thánh cũng đã cảnh cáo thẳng thắn: “Này kẻ gian, chớ rình rập nhà người công chính, cũng đừng phá phách nơi họ ở. Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng đứng lên được, còn kẻ ác cứ lảo đảo hoài trong cảnh tai ương” (Cn 24:15-16). Kẻ mê muội càng ngày càng lú lẫn vì miệt mài đi trên con đường tối tăm, tự làm mình mù lòa nên không thích ánh sáng và cũng chẳng thấy được ánh sáng.
Còn những người công chính, dù có những lúc đã trượt té – thậm chí là “té đau”, nhưng họ quyết tâm đứng dậy, không nằm lì, thế nên họ được Thiên Chúa thương xót độ trì. Vấn đề không phải trượt té mà là đứng dậy ngay hay không. Cảm nghiệm được điều này, tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hỡi tôi tớ Chúa, hãy dâng lời ca ngợi, nào ca ngợi danh thánh Chúa đi! Chúc tụng danh thánh Chúa, tự giờ đây cho đến mãi muôn đời!” (Tv 113:1-2).
Thiên Chúa vô cùng nhân từ, nhưng Ngài cũng rất mực công minh. Ai có công được thưởng, ai có tội bị phạt. Chúng ta chỉ là như những “bức tượng” được Điêu khắc gia Thiên Chúa tạo nên. Bức tượng không thể biết nhà điêu khắc thế nào. Tượng tự, cũng chẳng ai có thể hiểu được đường lối của Ngài: “Chúa siêu việt trên hết mọi dân, vinh quang Người vượt xa trời cao thẳm. Ai sánh tày Thượng Đế Chúa ta, Đấng ngự chốn cao vời, cúi xuống để nhìn xem bầu trời trái đất?” (Tv 113:4-6).
Chỉ là thụ tạo, là bụi cát, nhưng chúng ta được Thiên Chúa hết lòng yêu thương đến cùng, dù chúng ta đã từng trái lệnh Ngài. Không chỉ được Ngài xót thương, chúng ta còn được Ngài phong chức tước và ban ân lộc, như tác giả Thánh Vịnh đã minh định: “Kẻ mọn hèn, Chúa kéo ra khỏi nơi cát bụi, ai nghèo túng, Người cất nhắc từ đống phân tro, đặt ngồi chung với hàng quyền quý, hàng quyền quý dân Người” (Tv 113:7-8). Quả thật, điều đó tưởng chừng là “không tưởng”, nhưng đó lại là sự thật minh nhiên. Chúng ta cần phải nhận biết mà tạ ơn Ngài suốt đời.
Thánh Phaolô nói về việc cầu nguyện và tạ ơn: “Tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền, để chúng ta được an cư lạc nghiệp mà sống thật đạo đức và nghiêm chỉnh. Đó là điều tốt và đẹp lòng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2:1-4). Cầu nguyện không chỉ là cầu xin, nhưng chúng ta thường chỉ cầu xin, và thích xin theo ý mình chứ không xin theo ý Chúa.
Có lẽ vì vậy mà khi cầu xin không đúng ý mình, đức tin của chúng ta bị lung lay, thậm chí có người còn mất đức tin. Thật vậy, đã thấy có người vì “nguyên nhân tế nhị” nào đó mà họ theo Phật giáo. Mỗi năm, phụ nữ này vẫn về khu phố cũ nhờ người quen xin lễ cho thân nhân, còn chính chị ta lại tỏ ra sùng đạo Phật. Không thể hiểu nổi!
Nếu có một lý trí bình thường và không cố ý phủ nhận sự thật khi nhìn vào thiên nhiên – đơn giản nhất là mối quan hệ giữa không khí và sự sống, chúng ta dễ dàng nhận biết Đấng Tạo Hóa duy nhất. Đó chính là Đấng làm chủ vũ trụ – theo phàm ngôn, chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa, là Đức Chúa Trời, là Deus, là Dieu, là Dios, là Dio, là God, là Gott,… (theo ngôn ngữ của dân tộc mình). Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích và trần tình: “Chỉ có một Thiên Chúa, CHỈ CÓ MỘT Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người. Điều này đã được chứng thực vào đúng thời, đúng buổi. Và để làm chứng về điều này, tôi được đặt làm người rao giảng và làm Tông Đồ – tôi nói thật chứ không nói dối – nghĩa là làm thầy dạy các dân ngoại về đức tin và chân lý” (1 Tm 2:5-7).
Các chuỗi DNA “liên kết” sự sống trong các sinh vật thật kỳ diệu – từ sinh vật bé nhỏ nhất tới sinh vật to lớn nhất, con người không thể nào hiểu hết. Tế bào thế nào thì khỏe hoặc yếu, tốt hay xấu,… Chữa được bệnh này thì sinh bệnh khác. Y học không ngừng tìm tòi xưa nay mà vẫn không ngăn cản được sự chết, không thể làm cho con người bất tử hoặc trường sinh. Thế mà người ta vẫn muốn chối bỏ Đấng làm chủ Sự Sống. Kiêu ngạo quá đỗi!
Thiên Chúa đã ra quy luật đời đời dành cho phàm nhân: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19). Thực tế đã chứng minh chân lý đó: Socrates chết, Sigmund Freud chết, Khổng Tử chết, Lão Tử chết, Thích Ca Mâu Ni chết,… kể cả những người tự nhận mình là “sống mãi trong lòng mọi người”. Nói chung, AI CŨNG PHẢI CHẾT và KHÔNG THỂ TỰ TÁI SINH. Sự thật minh nhiên đó đã được Thánh Phaolô xác định: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9:27).
Chỉ có một Đấng bị người ta ghen ghét mà giết chết nhưng Ngài lại phục sinh khải hoàn: Đức Giêsu Kitô. Thật là hạnh phúc và cũng thật là “may mắn” vì chúng ta nhận biết Ngài, tôn thờ Ngài là Thiên Chúa thật duy nhất. Vì thế, chúng ta luôn cần Ngài. Nếu cần Ngài thì phải cầu nguyện như Thánh Phaolô ước mong: “Tôi muốn rằng người đàn ông hãy cầu nguyện ở bất cứ nơi nào, tay giơ lên trời, tâm hồn thánh thiện, không giận hờn, không xung khắc” (1 Tm 2:8). Nói như vậy không có nghĩa là đàn ông mới cần cầu nguyện, mà bất cứ ai cũng cần cầu nguyện – cầu nguyện liên lỉ.
Cầu nguyện là “hơi thở” của con người, cầu nguyện là NÓI VỚI CHÚA, điều này quan trọng hơn là NÓI VỀ CHÚA. Cầu nguyện cũng quan trọng hơn các hoạt động khác. Cầu nguyện liên quan đức tin, vì có tin tưởng mới cầu xin. Thật vậy, học giả Antoine-Frédéric Ozanam (1813-1853, người Pháp) đã xác định: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện”. Bác học Louis Pasteur (1822-1895, người Pháp) vẫn miệt mài cầu nguyện bằng Kinh Mai Côi bất cứ ở đâu hoặc lúc nào. Hai con người giỏi giang này đáng để chúng ta xem lại đức tin của mình lắm đấy!
Trình thuật Lc 16:1-13 nói về dụ ngôn “người quản gia bất lương” và cách sử dụng vật chất – cụ thể là tiền bạc. Tiền chỉ là những tờ giấy vô tri vô giác được ghi giá trị bằng những con số do con người quy ước. Cũng 100 đồng, đơn vị hoàn toàn bằng nhau, nhưng giá trị tiền mỗi nước khác nhau xa. Chúng ta phải làm chủ nó, nếu nó làm chủ chúng ta thì sinh nhiều “phiền toái”.
Tiền bạc là thứ cần thiết nhưng đừng để lòng “dính líu” tới nó. Nhóm Pharisêu vì mê tiền bạc mà sống giả nhân giả nghĩa. Thánh Phaolô xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc” (1 Tm 6:10).
Người Việt có câu: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Đó là thứ “quyền lợi” bất khả xâm phạm. Vì tiền bạc hoặc vật chất mà người ta dám làm mọi thứ, bất chấp tất cả, ngay cả thâm tình huyết thống cũng không đủ sức làm cho người ta “chùng tay” mà nghĩ lại. Thực tế cho thấy đã có những vụ án mạng giữa tình mẹ con, cha con, anh chị em ruột, họ hàng, xóm giềng,…
Thật là đáng sợ! Rõ ràng tiền bạc có mãnh lực làm lệch lạc lý trí của con người, ngay cả các giáo sĩ cũng bị tiền bạc làm nao núng, điên đảo, nếu họ mù quáng trước đồng tiền. Thực tế đã và đang cho chúng ta thấy sự thật phũ phàng như vậy. Có một số linh mục coi xứ chỉ “quen” với những ai cung phụng cho họ. Thiên Chúa rất đau lòng!
Qua ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã nghiêm túc và thẳng thắn nói về các mục tử bất xứng: “Những người canh gác Ít-ra-en đui mù hết, chẳng hiểu biết gì; cả bọn chúng là lũ chó câm, không biết sủa, chỉ mơ mộng, nằm dài và thích ngủ thôi. Chúng còn là lũ chó đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử, thứ mục tử chẳng biết phân biệt gì” (Is 56:10-11). Các câu Kinh Thánh đại loại như vậy khiến người ta khó chịu, tránh né, và họ ghét ai đề cập.
Mục tử mê tiền thì chỉ lo nhàn thân, bỏ mặc đoàn chiên, thậm chí còn “bòn rút” chiên như đỉa hút máu vậy. Người tông đồ đầu tiên vì mê tiền mà hóa đốn hèn là Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Đó là tấm gương “mờ” nhưng vẫn cần soi vào để có thể nhận biết mình có nhòa nhạt hay không. Ngày nay cũng không thiếu loại mục tử như thế, có khi họ ở ngay bên chúng ta! Loại mục tử này cũng tìm cách tạo “vây cánh” cho mình. Người ta nói ông này hay ông nọ có “gốc gác” TO lắm, MẠNH lắm. Khốn khổ thay cho đoàn chiên nào “bị gặp” loại mục tử dỏm như thế!
Đó là quyền tự do chọn lựa của mỗi người đối với tiền bạc. Thiên Chúa vẫn tôn trọng quyền tự do của họ. Hệ quả tất yếu là điều không thể tránh khỏi! Chúa Giêsu “phục vụ” mà họ “được phục vụ” – ngược với Ngài (Mt 20:28).
Đức Giêsu nói về nhà phú hộ kia có người quản gia lươn lẹo, mánh khóe, qua mặt chủ. Người ta tố cáo với ông chủ về việc anh ta phung phí của cải nhà ông. Ông gọi anh ta đến mà bảo anh ta tính sổ và sa thải anh ta. Vốn tính giao xảo, anh ta tìm mưu kế, vì anh ta nghĩ mình cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến. Anh ta hỏi người thứ nhất về món nợ với chủ, người ấy nói là “một trăm thùng dầu ô-liu”. Anh ta bảo người ấy cầm lấy biên lai và viết năm chục. Rồi anh ta hỏi người khác về số nợ, người ấy nói là “một ngàn giạ lúa”. Anh ta cũng bảo người ấy viết lại giấy sợ là “tám trăm giạ lúa”. Biết được thâm kế của tên quản gia bất lương, ông chủ khen anh ta đã hành động khôn khéo. Chúa Giêsu nói rõ: “Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại”.
Ngày nay, người ta giả dối tinh vi lắm. Các công trình vừa được khánh thành chưa được bao lâu đã hư hỏng, tình trạng này người ta gọi là “rút ruột công trình”. Thật không thể tưởng tượng được khi người ta đành lòng làm những cột điện rỗng, vỏ xi-măng mỏng và lót bao ni-lông,… Ông to cắn miếng lớn, ông vừa cắn miếng vừa, chú kia mút cái, chú nọ liếm cái, thế thì tiêu! Ngay cả tiền và đồ cứu trợ còn bị “ăn” thì còn gì để nói nữa chứ? Có bị lộ thì kẻ này đổ lỗi cho kẻ khác: cục đường ăn cả, cục muối chia đôi, quả lựu đạn đùn đẩy cho nhau. Thật khốn nạn!
Nói là vì công ích nhưng thật ra chỉ vì tư lợi. Nhiều cơ sở tôn giáo hoặc nơi tu trì đều bị người ta tìm cách chiếm giữ: Đan viện Thiên An (Huế), Nữ tu viện Phaolô (Hà Nội), Nữ tu viện MTG Thủ Thiêm (Q.2, Saigon),… và mới nhất là Chùa Liên Trì (Q.2, Saigon). Đáng quan ngại hơn là vấn đề môi trường, người ta dám coi rẻ sự sinh tồn của hàng triệu người mà làm ngơ trước cách làm ô nhiễm môi trường của Formosa, và rồi chấp nhận sự bồi thường rẻ mạt: 500 triệu USD. Mà dân nghèo có được đồng bạc lẻ nào không? Người ta thích cách chọn lựa như thế. Tội ác!
Ai cũng phải cố gắng trung tín trong việc sử dụng Tiền Của – cả vật chất và tâm linh. Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”. Đó là cách chọn lựa khôn ngoan. Và rồi Ngài lý luận rất cụ thể: “Ai trung tín trong việc rất nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ thì cũng bất lương trong việc lớn”. Đó là hệ lụy tất yếu vậy!
Tại sao? Chúa Giêsu giải thích bằng cách đặt vấn đề: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?”.
Lời Chúa luôn cụ thể, ngắn gọn mà súc tích, nhẹ nhàng mà nhức buốt, dễ hiểu mà cũng khó hiểu – vì người ta cố ý tránh né và không muốn hiểu: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được”.
Ngày nay người ta coi trọng bề ngoài, đề cao vật chất, đó là dấu hiệu nhắc nhở chúng ta về điều vô cùng quan trọng: Thời Cuối Cùng, Thời Cánh Chung, Ngày Tận Thế. Ngoài vấn đề mê tiền ham của, Thánh Phaolô cho biết thêm nhiều dấu hiệu khác: “Người ta sẽ ra ích kỷ, ham tiền bạc, khoác lác, kiêu ngạo, nói lộng ngôn, không vâng lời cha mẹ, vô ân bạc nghĩa, phạm thượng, vô tâm vô tình, tàn nhẫn, nói xấu, thiếu tiết độ, hung dữ, ghét điều thiện, phản trắc, nông nổi, lên mặt kiêu căng, yêu khoái lạc hơn yêu Thiên Chúa; hình thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2 Tm 3:2-5).
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chấp nhận và biết cách quản lý những gì con được sở hữu từ cách làm việc lương thiện. Con cầu xin Ngài tha thứ những khi lòng con hướng về vật chất, xin thương cho con được hóa đá và được nằm trong Núi Đá Ngài mãi mãi. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU