Home / Chia Sẻ / SỰ THẬT PHŨ PHÀNG

SỰ THẬT PHŨ PHÀNG

SỰ THẬT PHŨ PHÀNGDối Gian Làm Hư Nhiều Nhân Thế
Chân Lý Giải Thoát Hết Mọi Người

Chính Chúa Giêsu đã xác định với người Do Thái: “Nếu các ông ở lại trong lời của tôi thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và SỰ THẬT SẼ GIẢI PHÓNG CÁC ÔNG.” (Ga 8:31-32)

Người ta sợ sự thật vì sự thật phũ phàng, không như mình muốn. Người ta né tránh sự thật vì hèn hạ, nhưng lại muốn chứng tỏ mình có bản lĩnh. Họ “quên” rằng người BẢN LĨNH NHẤT là người DÁM CHÊ TRÁCH MÌNH chứ không chê trách người khác, người QUYỀN LỰC NHẤT là người có thể kiềm chế thói hư tật xấu của mình chứ KHÔNG ĐỘC ĐOÁN ÁP CHẾ người khác. Đó là sự thật mà Thiên Chúa muốn, là “phong cách chay” cần thiết.

Chúa Giêsu đã áp dụng Luật “Thẳng Thắn và Cương Quyết” và được đề cập trong trình thuật Ga 2:13-25. Thánh Gioan kể: Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Ngài thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Ngài liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Ngài đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Cả đám đông thế mà không dám cự nự gì, trong khi Chúa Giêsu chỉ có mình ên. Chắc hẳn họ biết mình sai, biết Chúa Giêsu làm đúng, thế nên họ tháo chạy. Người ta luôn sợ sự thật, kẻ xấu biết mình sai nên chỉ hành động lén lút, bị phát hiện thì bỏ chạy. Sợ sự thật bị phơi bày nên mới bỏ của mà chạy như thế.

Sau đó Ngài nói với những kẻ bán bồ câu: “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, ĐỪNG BIẾN NHÀ CHA TÔI THÀNH NƠI BUÔN BÁN.” Ngày nay, không ai dám buôn bán trong nhà thờ, nhưng người ta có nhiều cách buôn bán tinh vi hơn – cả tinh thần lẫn vật chất. Tất nhiên người ta cũng có nhiều cách tinh vi để chống chế, biện hộ, rất “kỳ lạ” với nhiều chiêu thức lắm.

Ngày xưa, những người buôn bán trong Đền Thờ là dân thường. Ngày nay, dân thường “không có cửa” để làm vậy. Chắc chắn họ phải có chức quyền, phe cánh, mánh khóe. Những “con buôn” ngày nay là ai? Liệu chúng ta có dám nhìn thẳng vào sự thật? Ai dám phanh phui, dám nói ra, dám phản đối? Ai dám thẳng thắn như vậy thì… “chết chắc.” Nghĩa là họ sẽ bị cô lập, bị mọi người xa lánh, bị ghét bỏ,…

Tiền bạc có sức mạnh khó cưỡng lại nên người ta gọi là “ma lực.” Kủng khiếp lắm! Bọn con buôn chưa thể hại Chúa Giêsu lúc đó, nhưng chắc chắn họ rất ghét Ngài, tìm mọi cách cấu kết với nhau để triệt hạ Ngài. Lúc đó ánh mắt họ như những tia lửa, những cặp mắt mang hình trái phá, lòng hậm hực, miệng nguyền rủa,… Vì thế, các môn đệ của Ngài nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.” (Tv 69:10)

Hôm đó, người Do Thái ấm ức và cay cú, nên họ hỏi vặn Chúa Giêsu: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?” Ngài thản nhiên: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” Họ hiểu gì nổi! Do đó, họ mới ngây ngô nói: “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?” Nếu là người Do Thái, chắc chắn chúng ta cũng gãi đầu, bứt tóc, rồi cũng chẳng hiểu mô tê gì ráo trọi. May thay, Thánh Gioan đã giải thích: “Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Ngài.”

Không chỉ người Do Thái hỏi ngớ ngẩn như vậy, mà cả các môn đệ cũng ngớ ra, không hiểu gì. Mãi đến khi Chúa Giêsu từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Ngài đã nói điều đó, họ mới thực sự tin vào Kinh Thánh và lời Sư Phụ đã nói. Cái gì đã qua rồi thì muộn màng rồi!

Ai cũng khả dĩ biết rằng cuộc đời luôn nhiêu khê – kẻ thế này, người thế nọ, kẻ cố chấp, người phục thiện. Trong số những người bị đánh đuổi ra khỏi Đền Thờ, không phải ai cũng khó chịu, ghen ghét, mà có những người chợt “sáng mắt” và tâm phục khẩu phục. Thánh Gioan cho biết: “Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Ngài bởi đã chứng kiến các dấu lạ Ngài làm.” Nhưng Thánh Gioan cũng cho biết thêm: “Chính Đức Giêsu không tin họ, vì Ngài biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Ngài biết có gì trong lòng con người.” Ngài không tin họ vì họ giả hình và chiếu lệ mà thôi.

Thiên Chúa đã lập luật để con người tuân giữ ngay từ thuở khai thiên lập địa: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi KHÔNG ĐƯỢC ĂN, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết.” (St 2:16-17) Vị trí cây này ở giữa Vườn Địa Đàng. (St 3:3) Ăn để sống chứ không sống để ăn. Có thứ ăn vào thì sống, có thứ ăn vào thì chết. Không phải thực phẩm nào cũng tốt. Có thứ ăn vào thì tốt, khỏe thêm, có thứ ăn vào thì hại, hóa bệnh. Đó là quy luật về ẩm thực, về dinh dưỡng. Cái miệng có thể hại cái thân. Ta hại mình chứ chẳng ai hại mình.

Trong cuộc sống cũng có nhiều luật – luật tự nhiên, luật môi trường, luật hôn nhân và gia đình, luật giao thông, luật dân sự, luật quân đội,… Nhà có gia phong, nước có quốc pháp, tổ chức dù lớn hay nhỏ đều có quy luật. Đời và đạo cũng có luật riêng. Như chiếc hàm thiếc hoặc dây cương để điều khiển con ngựa, luật giúp con người sống đàng hoàng hoặc chấn chỉnh cách sống. Lề luật cần thiết nhưng không quan trọng bằng con người. Thật vậy, có lần người Pharisêu thấy các môn đệ bứt lúa ăn trong ngày sabát, họ liền chê trách và cho đó là phạm luật, nhưng Chúa Giêsu thẳng thắn nói với họ: “Ngày sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát.” (Mc 2:27) Luật vị nhân sinh, không nên câu nệ.

Vả lại, trong luật còn có những điều khoản khác nhau. Phạm luật là phạm pháp, có tội, nhưng mức độ phạm tội cũng khác nhau. Người áp dụng luật để xét xử cũng phải dùng lòng yêu thương mà xét xử. Cuộc sống có nhiều loại luật – từ hội đoàn tới làng xã, từ quốc gia tới quốc tế, nhưng các luật đó vẫn chỉ là nhân luật – luật của con người, quan trọng nhất vẫn là Thiên Luật, và mọi lề luật đều phải dựa vào Luật của Thiên Chúa.

Với người Công giáo, chúng ta có Mười Điều Răn và Năm Điều Răn Hội Thánh. Tân Luật tóm gọn còn 2 điều là Mến Chúa và Yêu Người. Còn Cựu Luật có hơn 600 điều. Will Durant (1885-1981 – văn sĩ, sử gia và triết gia Hoa Kỳ) có triết lý sống rất lạ: “Con người trở nên tự do khi nhận ra mình bị luật lệ ràng buộc.” Lề luật như sợi dây “trói buộc” người ta, nhưng chính sợi dây đó làm cho người ta được tự do. Lạ thay!

Trình thuật Xh 20:1-17 nói rằng Thiên Chúa đã truyền ban các khoản luật để con người theo đó mà sống: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi đất Ai Cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC có thần nào khác đối nghịch với Ta. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ. Ngươi KHÔNG ĐƯỢC phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời.” Điệp khúc “không được” là những điều cấm tuyệt đối.

Luật tự nhiên là Luật Chúa, không gì trái ngược. Ngài nói: “Ngươi KHÔNG ĐƯỢC dùng danh Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, một cách bất xứng, vì Đức Chúa không dung tha kẻ dùng danh Người một cách bất xứng. Ngươi hãy nhớ ngày sabát, mà coi đó là ngày thánh. Trong sáu ngày, ngươi sẽ lao động và làm mọi công việc của ngươi. Còn ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi KHÔNG ĐƯỢC làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi. Vì trong sáu ngày, Đức Chúa đã dựng nên trời đất, biển khơi, và muôn loài trong đó, nhưng Người đã nghỉ ngày thứ bảy. Bởi vậy, Đức Chúa đã chúc phúc cho ngày sabát và coi đó là ngày thánh.” Nghe có vẻ dài dòng, nhưng đó là những điều có trong Năm Điều Răn Hội Thánh. Không xa lạ, vì rất nhiều nhà thờ thường đọc kinh Mười Điều Răn và Năm Điều Răn Hội Thánh vào các ngày Chúa Nhật. Nhưng có thể vì thuộc lòng, quen đọc, thế nên có thể chỉ đọc như vẹt mà không suy ngẫm sâu sắc.

Và rồi Ngài truyền dạy các luật khác: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi. Ngươi không được giết người. Ngươi không được ngoại tình. Ngươi không được trộm cắp. Ngươi không được làm chứng gian hại người. Ngươi không được ham muốn nhà người ta, ngươi không được ham muốn vợ người ta, tôi tớ nam nữ, con bò con lừa, hay bất cứ vật gì của người ta.” Phần này có trong Mười Điều Răn, và cũng là những điều quen thuộc, nhưng thi hành mãi vẫn chưa được đúng luật.

Thời Cựu Ước có cách nói tiêu cực: Cấm, đừng, chớ, không được,… Thời Tân Ước có cách nói tích cực: Phúc cho, phúc thay,… Cách nói thay đổi theo sự phát triển của xã hội, của con người, và cách nghĩ cũng thay đổi cho phù hợp. Đó là bình thường. Như chúng ta biết, tất cả mọi sự đều thay đổi theo thời gian, kể cả luật pháp, cũng chỉ vì muốn con người sống tốt, hy vọng con người càng ngày càng hoàn thiện hơn. Mình sống tốt thì vừa lợi cho mình vừa lợi cho tha nhân, hữu ích cho xã hội và Giáo Hội, đồng thời cũng làm Thiên Chúa vui lòng.

Con người bất toàn nên cần giữ luật, vì luật giúp con người hoàn thiện. Với kinh nghiệm giữ Luật Chúa, Thánh Vịnh gia đã vui mừng thốt lên: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn. Huấn lệnh Chúa hoàn toàn ngay thẳng, làm hoan hỷ cõi lòng. Mệnh lệnh Chúa xiết bao minh bạch, cho đôi mắt rạng ngời.” (Tv 19:8-9) Có rất nhiều lợi ích nhờ giữ luật.

Trong văn nói, người ta thường ưa dùng tỷ giảo cách (so sánh), có lẽ vì người ta thích những gì cụ thể để dễ hiểu: Sắc như dao cau, đen như mực, trắng như bông, đẹp như tiên, xấu như quỷ,… Với những gì siêu phàm thì càng khó hiểu hơn, thậm chí là không thể hiểu. Tuy nhiên, Thánh Vịnh gia vẫn khéo léo giúp chúng ta dễ hiểu với lối so sánh thực tế: “Lòng kính sợ Chúa luôn trong trắng, tồn tại đến muôn đời. Quyết định Chúa phù hợp chân lý, hết thảy đều công minh, thật quý báu hơn vàng, hơn vàng y muôn lượng, ngọt ngào hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất.” (Tv 19:10-11)

Người thế này, kẻ thế khác, chẳng ai giống ai – thể lý và tinh thần. Mỗi con người là một thế giới bí ẩn. Hằng ngày, chúng ta vẫn chứng kiến những điều trái ngược nhau: Người thích điều thiện, kẻ ưa điều ác. Nếu không thích điều ác thì sao người ta dễ giết nhau chỉ vì xích mích nhỏ? Có những người, cả trẻ và lớn, đi đâu cũng giấu sẵn dao, gặp “sự cố” là rút ra “chơi” liền – tức là có mưu tính trước.

Về các sở thích khác nhau, Thánh Phaolô nói: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ.” (1 Cr 1:22-23) Sở thích của Thánh Phaolô cũng là sở thích của những người muốn nên giống Đức Kitô, muốn hoàn thiện, muốn nên thánh.

Thánh Phaolô giải thích: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người.” (1 Cr 1:24-25) Điên rồ mà khôn ngoan, yếu đuối mà mạnh mẽ. Với phàm nhân, đó là nghịch lý và không thể hiểu, nhưng với người có đức tin thì đó là thuận lý, có thể hiểu. Thập giá là đường dẫn tới cái chết ê chề, nhưng lại hóa thành chìa khóa mở cửa Vương Quốc Trường Sinh. Đau khổ có giá trị cao nhưng không dễ để có thể hiểu được giá trị đó.

Mùa Chay Thánh là dịp may, là cơ hội tốt – đặc biệt là Mùa Chay này, vì không ai chắc mình còn được sống Mùa Chay năm tới nữa hay không. Vì thế, hãy cùng tâm niệm với Thánh Vịnh gia: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119:105) Ước gì mỗi chúng ta luôn tâm niệm như vậy suốt đời này!

Lạy Thiên Chúa, xin thêm can đảm để chúng con đối diện sự thật, sống thật và bảo vệ sự thật, biết phục thiện chứ không tự ái, cố chấp. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …