Phục vụ là điều cần thiết, điều mà Chúa Giêsu rất trân trọng và đích thân Ngài đã nêu gương: “Tôi đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10:45).
Phục vụ có nhiều cách và nhiều cấp độ. Tôi tớ phục vụ chủ nhân, người nhỏ phục vụ người lớn, con cái phục vụ cha mẹ, chủ nhà phục vụ khách,… Đó là quy ước mặc nhiên của xã hội, nhưng thực ra, mọi người đều phục vụ nhau, không nhiều thì ít, không kiểu này thì dạng nọ, dù là người lớn vẫn có lúc phục vụ người nhỏ hoặc người trên cũng có khi phục vụ người dưới. Tuy nhiên, dù phục vụ ở dạng nào, vấn đề quan trọng là PHONG CÁCH PHỤC VỤ, vì đôi khi người ta có thể kiêu ngạo hoặc tự tôn ngay khi tỏ vẻ phục vụ. Quả thật, phục vụ cũng có dạng giả dối. Thật nguy hiểm!
Phục vụ là bổn phận chung, không là trách nhiệm riêng ai. Đừng nghĩ người này phải thế nọ, người kia phải thế khác. Nhà văn Nam Cao nhận xét: “Kẻ mạnh phải là kẻ giúp đỡ người khác trên đôi vai của mình”. Hay quá! Đó là một cách yêu thương và nâng đỡ người khác, đồng thời cũng là một cách phục vụ. Còn chí sĩ Chu Văn An nhận định: “Người thức giả phải nói lên sự thật cốt sao cho dân được ấm no, thiên hạ được thái bình, triều đình được vững mạnh”. Đó lại là một dạng phục vụ khác, phục vụ vì hạnh phúc của cộng đồng. Mỗi người đều có phong cách độc đáo riêng!
Đức Chúa hiện ra với ông Ápraham tại cụm sồi Mamrê, khi ông đang ngồi ở cửa lều, vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Khi ông ngước mắt lên thì thấy có ba người đứng gần ông. Vừa thấy họ, ông liền từ cửa lều chạy ra đón khách, sụp xuống đất lạy và nói: “Thưa Ngài, nếu tôi được đẹp lòng Ngài, thì xin Ngài đừng đi qua mà không ghé thăm tôi tớ Ngài. Để tôi cho lấy chút nước, mời các ngài rửa chân rồi nằm nghỉ dưới gốc cây. Tôi xin đi lấy ít bánh, để các ngài dùng cho chắc dạ, trước khi tiếp tục đi, vì các ngài đã ghé thăm tôi tớ các ngài đây!” (St 18:3-5). Phong cách phục vụ của Tổ phụ Ápraham chu đáo và tận tình. Khách vui vẻ để cho chủ nhà phục vụ: “Xin cứ làm như ông vừa nói!”.
Ông Ápraham vội vã vào lều tìm bà Sara mà bảo: “Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi, rồi làm bánh” (St 18:6). Tổ phụ Ápraham có tinh thần phục vụ thật cao. Khách đến nhà không gà thì vịt, thế nên ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê mềm và ngon, giao cho người đầy tớ, và anh này vội vã làm thịt. Rồi ông lấy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi khách. Không chỉ vậy, ông còn đứng hầu dưới gốc cây khi khách dùng bữa. Vừa tận tình vừa khiêm nhường. Đúng là tấm gương sáng!
Thiên Chúa rất vui lòng, thế nên ông Ápraham được người khách hứa: “Sang năm, tôi sẽ trở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ ông sẽ có một con trai” (St 18:10). Con cái là quà tặng vô giá từ Thiên Chúa. Người được Thiên Chúa trao tặng phẩm nào cũng phải là người đẹp lòng Chúa.
Ai là người đẹp lòng Chúa? Chắc hẳn phải là người thuộc về Ngài. Nhưng ai thuộc về Ngài? Tác giả Thánh Vịnh đặt câu hỏi: “Lạy Chúa, ai được vào ngụ trong nhà Chúa, được ở trên Núi Thánh của Ngài?” (Tv 15:1). Tác giả đưa ra những dạng nhân đức cụ thể: “Là kẻ sống vẹn toàn, luôn làm điều ngay thẳng, bụng nghĩ sao nói vậy, miệng lưỡi chẳng vu oan, không làm hại người nào, chẳng làm ai nhục nhã, coi khinh phường gian ác, trọng ai kính Chúa Trời, lỡ thề mà bị thiệt cũng chẳng rút lời, cho vay không đặt lãi, chẳng nhận quà hối lộ mà hại đến người ngay. Phàm ai làm những điều này không hề nao núng chuyển lay bao giờ” (Tv 15:2-5).
Xét theo “luật nhân đức” này thì chúng ta vi phạm khá nhiều. Tại sao? Vì thiếu ngay thẳng, lọc lừa nhau đủ kiểu, không hại người chuyện to thì cũng hại người chuyện nhỏ, làm người khác bẽ mặt một cách rất tinh vi, không trọng chữ tín, nói một đằng làm một nẻo, cho vay “cắt cổ”, hối lộ thường xuyên,… Tự rờ gáy mà cũng thấy “nhột” quá! Vi phạm luật như vậy thì làm sao có thể phục vụ người khác?
Phục vụ thì vất vả, không dễ thực hiện, nhất là phục vụ vì Đức Kitô. Thánh Phaolô nói: “Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. Tôi đã trở nên người phục vụ Hội Thánh, theo kế hoạch Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em: đó là tôi phải rao giảng lời của Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho dân thánh của Thiên Chúa” (Cl 1:24-26). Thánh nhân giải thích đơn giản mà rõ ràng, nhẹ nhàng mà thẳng thắn, và rất nghiêm túc.
Thánh Phaolô nói thêm: “Người đã muốn cho họ được biết mầu nhiệm này phong phú và hiển hách biết bao giữa các dân ngoại: đó là chính Đức Kitô đang ở giữa anh em, Đấng ban cho chúng ta niềm hy vọng đạt tới vinh quang. Chính Người là Đấng chúng tôi rao giảng, khi khuyên bảo mỗi người và dạy dỗ mỗi người với tất cả sự khôn ngoan, để giúp mỗi người nên hoàn thiện trong Đức Kitô” (Cl 1:27-28). Nói với người khác về Chúa không phải để chứng tỏ “đẳng” cấp của mình, để người khác “nể mặt” mình hoặc “ca tụng” mình, mà là phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân và muốn họ nên thánh theo đúng Tôn Ý Chúa. Đó mới là phong cách phục vụ thánh thiện và tốt lành, là phong cách phục vụ mà Thiên Chúa mong muốn.
Thánh sử Luca kể rằng khi Thầy trò Đức Giêsu vào một làng kia, có một phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Cô này có người em gái tên là Maria. Cô em cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô chị thì tất bật lo việc phục vụ. Có lẽ cô chị thấy em gái “vô tư” quá, cả Chúa Giêsu cũng “vô tâm” luôn, còn mình bận rộn làm bữa mà không ngơi tay, cô chị ấm ức nên tiến lại bên Chúa Giêsu mà nói: “Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10:40).
Chúa ôn tồn đáp: “Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10:41-42).
Trong cuộc sống, chúng ta cũng thấy có hai dạng người. Loại thứ nhất: Lăng xăng và ồn ào; loại thứ nhì: Điềm đạm và ít nói. Tất nhiên mỗi loại người đều có mặt tích cực riêng. Công việc bừa bộn mà không có người đôn đáo và linh hoạt thì cũng khó, nhưng chỉ lo bề ngoài mà “quên” bề trong, chú ý “phần nổi” mà không để ý “phần chìm” thì cũng chẳng đâu vào đâu. Mỗi loại đều có đặc tính nhất định, không thể chê mặt này mà khen mặt kia.
Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng, trước khi được thể hiện ra ngoài thì phải có nguồn gốc từ bề trong. Phần chìm của tảng băng trôi luôn lớn hơn phần nổi. Nội tại vẫn có phần “nặng ký” hơn ngoại tại. Thật vậy, một hành động phải được suy tính trước rồi mới được thực hiện, người ta phải muốn trước khi hành động. Ngay cả tội lỗi cũng vậy, người ta phải muốn trước đã, rồi đồng thuận, sau đó mới thực hiện.
Chúa Giêsu không chê công việc phục vụ của Mác-ta, mà Ngài chỉ khuyên “đừng lăng xăng quá”, đừng làm ra vẻ “ta đây” đảm đang, đừng tỏ ra mình “ngon” hơn người khác, bởi vì điều gì thái quá cũng hóa bất cập. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hành động. Chúa Giêsu khen Maria tức là Ngài đề cao việc cầu nguyện. Tại sao cần cầu nguyện? Cầu nguyện để lắng nghe tiếng Chúa, để nhận biết ý Chúa mà thực hiện đúng ý Ngài: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời.
Thi hành ý Chúa là phục vụ Chúa, đồng thời cũng là phục vụ tha nhân. Phục vụ là quên mình, là hạ mình, là chấp nhận mình “nhỏ” hơn, nhưng việc phục vụ phải thực hành với phong cách khiêm nhường và thể hiện yêu thương thì mới đẹp lòng Thiên Chúa. Thật lạ: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (Thánh Phanxicô Assisi).
Lạy Thiên Chúa, xin cho chúng con biết quên mình vì Chúa và vì tha nhân, để chúng con biết phục vụ nhau mà không hề mặc cả, không hề so đo. Và nhờ đó, người ta có thể nhận biết Chúa qua cách phục vụ của chúng con trong mọi hoàn cảnh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU