Home / Chia Sẻ / PHÉP TÍNH KỲ DIỆU

PHÉP TÍNH KỲ DIỆU

PHÉP TÍNH KỲ DIỆUTrong toán học có nhiều phép tính, cơ bản nhất là bốn phép tính: Cộng – Trừ – Nhân – Chia. Cuộc sống đời thường có nhiều thứ phải tính toán, từ đơn giản đến phức tạp. Có những bài toán có thể tìm ra đáp số, nhưng có những bài toán không thể tìm ra đáp số, và có những phương trình vô nghiệm.

Chắc hẳn mỗi chúng ta cũng đã từng có những lúc bối rối, không biết tính thế nào cho hợp lý, càng khó hơn khi đó là vấn đề hệ trọng. Một trong các vấn đề nan giải và liên quan cả đời là hôn nhân. Thế nên cụ Nguyễn Du đã khuyên: “Trăm năm tính cuộc vuông tròn – Phải dò cho tới ngọn nguồn lạch, sông” (Truyện Kiều, câu 1331-1332). Quả thật, không hề đơn giản như người ta tưởng!

Có những cách tính lạ, độc đáo. Có khi rất đơn giản mà không nghĩ ra. Tuy nhiên, thiết tưởng rằng chắc chắn không có cách tính nào kỳ diệu bằng Bài-Toán-Hôn-Nhân-Công-Giáo, đơn giản nhất mà lại khó giải nhất, và cũng ngược đời nhất: 1 + 1 = 1, vậy mà bài toán này vẫn hoàn toàn đúng: “Người ta sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (Mt 19:5). Hôn nhân Công giáo có “đặc điểm” khác hẳn các hôn nhân khác nhờ Hôn Luật Thánh: “Sự gì Thiên Chúa ĐÃ phối hợp, loài người KHÔNG ĐƯỢC phân ly” (Mt 19:6; Mc 10:9). Người đời cũng vẫn công nhận đó thôi: “Mình với ta tuy hai mà một – Ta với mình tuy một mà hai”.

Hôn nhân là chuyện cả đời nên cần thấu đáo mới khả dĩ tạo nền móng bền vững. Cái gì có BỀN thì mới VỮNG được, nếu không thì sẽ có lúc rạn nứt rồi đổ vỡ – chẳng chóng thì chày.

Ngay từ thuở khai thiên lập địa, sau khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã xác định: “Con người ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Một cách quan phòng và tiền định kỳ diệu của Đấng Tạo Hóa – Thiên Chúa duy nhất. Điều đó cho thấy tiền đồ của Ngài là muốn con người sống hài hòa với nhau,liên kết với nhau, cùng chia sẻ vui buồn và đồng hưởng sự ngọt ngào của vị hạnh phúc. Ngài biết hai phái sống với nhau sẽ sinh nhiều chuyện, khổ lắm, thế nên Ngài tạo niềm vui để cân bằng cuộc sống hôn nhân của họ.

Trong quá trình sáng tạo, Ngài“lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì thì tên nó sẽ là thế” (St 2:19). Ngài tạo dựng muôn loài, nhưng Ngài muốn con người “góp công” nên cho con người được quyền đặt tên mọi loài, chứng tỏ con người có giá trị trong cách nhìn của Ngài. Thật là diễm phúc biết bao! Rồi sau khi “con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:10).Vì thế, Ngài“cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi, rồi Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào” (St 2:21).Nghe trình thuật về việc Chúa làm thì thấy thật kỳ lạ, ngày nay người ta thấy vậy sẽ cho đó là “ma thuật”, nhưng không, hoàn toàn là quyền năng vô song của Thiên Chúa, và CHỈ MỘT MÌNH NGÀI LÀM ĐƯỢC NHƯ VẬY mà thôi!

Ngay sau đó, Ngài lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra – ý nói “con người” ở đây là “đàn ông”, Ngài làm thành một “sinh vật lạ”, và dẫn đến với con người.Thấy vậy, con người nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Bởi thế, “người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2:24). Ôi, “sinh vật lạ” sao mà đẹp quá, ngày nay gọi là mỹ nhận, thế nên chàng Ađam “lé mắt” luôn, và rồi cũng sẽ… “chết chắc”!

Có lẽ từ “câu chuyện” trong Kinh Thánh như vậy nên phe đàn ông thường “tự đề cao” mà “lý luận” rằng Thiên Chúa dựng nên nam giới trước, nữ giới chỉ là “sản phẩm” của nam giới, là “cấp dưới” nên phải chịu “lệ thuộc”. Cách nghĩ và quan niệm như vậy thật khủng khiếp. Thậm chí người ta còn cho rằng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” (một trai kể là có, mười nữ coi như không). Lối suy nghĩ thật là ấu trĩ, thiển cận, nông cạn và kiêu ngạo! Càng nói càng lòi cái… ngu, ngu kinh niên. Tại sao? Vì cái gì cũng có tính liên đới.

Như chúng ta đã biết, Nhóm Xa-đốc gồm những người không tin có sự sống lại. Một hôm, họ hỏi Chúa Giêsu để “gài bẫy” Ngài về chuyện bảy anh em trai, lần lượt mỗi người đều cưới cùng một cô vợ, vì luật Mô-sê nói rằng anh lấy vợ mà chết trước khi có con thì chú em phải cưới chị dâu làm vợ. Cả bảy anh em đều cưới cô ta mà không có đứa con nào.Hết thuốc chữa! Nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu rằng khi sống lại thì cô nàng sẽ là vợ của người nào trong bảy anh em kia. Chắc là lúc đó họ cười thầm vì Chúa Giêsu phải “bó tay” thôi. Thế nhưng Chúa Giêsu thản nhiên và nói chắc hơn hàn xì: “Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh, cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa. Quả thế, trong ngày sống lại, người ta chẳng lấy vợ lấy chồng, nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời” (Mt 22:29-30; Mc 12:24-25; Lc 20:34-36). Hố to! Đã vậy họ còn bị Chúa Giêsu trách là “lầm” và chê là “ngu dốt”, chẳng biết Kinh thánh, chứ nói chi biết đến quyền năng của Thiên Chúa – Đấng tạo dựng mọi sự, vô hình và hữu hình. Đúng là họ lộ cái ngu thấy rõ luôn. Không nói thì chẳng ai biết mình ngu, càng nói càng tự thú “lạy ông, tôi ở bụi ngu” đây này!

Sự đời vẫn thế, ngày nay gọi là “ngu mà chảnh”. Thời kỳ sáng thế cũng vậy thôi. Chúa dựng nên con người tốt lành, không hề có khái niệm nam, nữ, hoặc đồng giới. Thế nên người ta thoải mái “ở mát” rất vô tư: “Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trướcmặt nhau” (St 2:25). Chỉ sau khi đã phạm tội, con người mới nhận ra mình trần truồng và xấu hổ với nhau, muốn… độn thổ mà không được. Sao vậy? Chính tội lỗi làm cho “mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”, và rồi “họ kết lá vả làm khố che thân” (St 3:7).

Như hai cực nam châm trái dấu, nam và nữ cũng có “sức thu hút” lẫn nhau, nhờ đó mà phát sinh tình yêu, tình yêu dẫn đến hôn nhân. Hôn nhân là “sợi” liên kết tạo nên một gia đình mới– tế bào cơ bản của xã hội. Tế bào gốc nhỏ bé nhưng rất quan trọng trong chuỗi AND trong con người, gia đình cũng vậy. Để có nền tảng gia đình vững chắc, phải có hôn nhân tốt lành, đòi buộc sự chung thủy một vợ và một chồng, có vậy mới không sinh những hệ lụy rắc rối khác. Ca dao Việt Nam có nhiều câu nói về sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân, chẳng hạn câu phổ biến này:

Bao giờ cạn nước Đồng Nai,

Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền.

Làm sao mà phai được chứ? Không thể. Sự chung thủy không là bổn phận của riêng ai. Và sự chung thủy ấy được thể hiện qua lời tâm sự củangười vợ dành trọn trái tim yêu thương cho người chồng:

Đi đâu cho thiếp theo cùng,

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Thế thì thật tốt. Nàng đã vậy, còn chàng thì sao? Sự chung thủy ấy cũng phải được người chồng thể hiện triệt để, như lời tâm sự của người chồng ngày xưa:

Tay cầm quyển sách bìa vàng,

Sách bao nhiêu chữ, thương nàng bấy nhiêu.

Tình thương thành thật thì tuyệt! Chung thủy là “chén nước được giữ thăng bằng”, không hề sóng sánh. Luật chung thủy phải được cả đôi bên tôn trọng suốt đời.Thật vậy, khi hai người cùng nhau cử hành bí tích hôn phối trước mặt vị đại diện Giáo hội và cộng đoàn Dân Chúa, họ đãvui vẻ thề hứa công khai: “Anh (em) nhận em (anh) làm vợ (chồng), và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em (anh), khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em (anh) mọi ngày suốt đời anh (em)”.Vậy đó, “mình với ta tuy hai mà một”, vì thế mà không ai có thể “xẻ” mình ra được – chỉ có người điên khùng mới làm vậy!

Tiền nhân đã xác định: “Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn”. Thuận nhau không có nghĩa là giống nhau hoàn toàn, mà là nhường nhịn nhau, chấp nhận và cảm thông sự khác nhau. “Một nhịn, chín lành” là thế, “kê cho bằng trăm chỗ lệch” là vậy. Đặc biệt hơn, hôn nhân Công giáo là một ơn gọi và là bí tích,hôn nhân Công giáo là hôn nhân thánh.

Ngày xưa, Thánh Vịnh giađã hân hoan chúc mừng: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may. Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn” (Tv 128:1-3). Hôn nhân là hành trình đầy trọng trách và gian khó, nhưng bù lại cũng nhiều niềm vui, có thể nói rằng hôn nhân là “nỗi đau ngọt ngào”.Đó là niềm hạnh phúc độc đáo trong hôn nhân! Thật vậy, trầu cau xanh kết hợp với vôi trắng tạo nên nước đỏ tươi và vị cay, chính vị cay đó là “chất gây nghiện” nên người ta mới khoái ăn trầu. Có những người không còn răng mà vẫn thèm trầu, không nhai được nên phải giã nát rồi ngậm cho thỏa lòng. Chí lý lắm!

Hôn nhân thực sự là điều kỳ diệu, gia đình cũng là sự lạ lùng lắm. Niềmhạnh phúc hôn nhân và gia đình chính là “phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:4). Một lần nữa, Thánh Vịnh gia cầu chúc cho những người sống đời hôn nhân – gia đình: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu. Nguyện chúc Ít-ra-en vui hưởng thái bình” (Tv 128:5-6). Có thể vì đời thường như vậy nên chúng ta không nhận ra mối liên kết kỳ diệu trong mối quan hệ về hôn nhân – gia đình. Quả thật, đó là một phép lạ của Thiên Chúa.

Con người là sinh vật cao cấp – mặc dù chỉ là phận bụi tro và kiếp tội nhân. Bằng chứng là Thánh Phaolô phân tích: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu” (Dt 2:9a). Thật vậy, “Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa” (Dt 2:9b). Thánh Phaolô nói rạch ròi: “Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10). Tình yêu của Thiên Chúa bao la, lòng thương xót của Ngài vô tận.

Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng chí nhân, Ngài không muốn ai phải hư mất, mà chỉ muốn tất cả tội nhân chúng ta cũng được hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc với Ngài. Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, “những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc” (Dt 2:11), vì thế, Ngài đã không hề hổ thẹn gọi chúng ta là huynh đệ – dù chúng ta quá khốn nạn, xấu xa, tội lỗi, đốn hèn.Thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta từ “không” mà biến thành “có”. Còn gì có thể so sánh được chăng? Chắc chắn là không!

Là Kitô hữu, ai trong chúng ta cũng đều biết rằng mục đích của hôn nhân không chỉ là sinh con đẻ cái theo lệnh Chúa: “Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 1:28).Còn hơn thế nữa, mục đích của hôn nhân là giúp nhau nên thánh: “Hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Có nhiều phương thế nên thánh, hôn nhân là một trong các cách đó.

Về tâm linh, có hai dạng cơ bản – hữu thần và vô thần, duy tâm và duy vật. Một hôm, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” (Mc 10:2). Họ chẳng tốt lành gì, hỏi han cho ra vẻ thân thiện chứ thực tế họ muốnthử Ngài, muốn “gài bẫy” Ngài. Nhưng Ngài thản nhiên: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?”(Mc 10:3).Xem chừng họvẫn “vô tư” khi cho biết: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10:4). Thế là Đức Giêsu “chơi” liên khúc với họ: “Chính vì các ông LÒNG CHAI DẠ ĐÁ, nên ông Mô-sê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành MỘT xương MỘT thịt. Như vậy, họ KHÔNG còn là hai, nhưng chỉ là MỘT xương MỘT thịt” (Mc 10:5-8).VàNgài quả quyết: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người KHÔNG được phân ly” (Mc 10:9). Đúng là kẻ “dốt đặc cán mai” lại hay tỏ ra thông thái, ngu truyền kiếp mà tưởng mình thông minh. Gậy ông đập lưng ông. Cuối cùng, họ đành ngậm bồ hòn và im như thóc thối. Tất nhiên thôi!

Mà kể cũng lạ, ngay cả các môn đệ cũng lơ ngơ như bị “chạm mạch”, thế nên khi về đến nhà, các ông lại hỏi Ngài về điều ấy. Ngài minh định: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình” (Mc 10:11-12). Quá rõ, không phân biệt nam hay nữ chi cả. Ai sai nấy chịu. Tội là cái Tôi-Nặng (kiểu đánh vần chữ Tội trong Việt ngữ).

Nghe danh Thầy Giêsu nổi như cồn, lúc đó người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ la rầy chúng. Thấy vậy, Ngài thẳng thắnquở trách các ông: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, ĐỪNG ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng” (Mc 10:14). Thấy các đệ tử mình theo mình mà chẳng giống mình, thế nên, dù Ngài rất nhân từ và hiền lành mà còn phải “nổi nóng” thì hẳn là chuyện không vừa, chắc chắn các môn đệ phải xua đuổi các trẻ em dữ lắm. Và rồi Ngài nhấn mạnh: “Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:15). Thánh Mátthêu còn kể rõ: “Ngài ÔM lấy các trẻ em và đặt tay CHÚC LÀNH cho chúng” (Mt 10:16).

Lại có một Phép Tính kỳ diệu nữa đối với tất cả chúng ta về “bí quyết” để làm công dân Nước Trời: SỐNG ĐƠN SƠ. Đó là “Con Đường Thơ Ấu” và là bí quyết nên thánh của Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, như thánh nữ xác định: “Nên thánh chỉ đơn giản là làm theo Thánh Ý Chúa và trở nên như Ngài muốn”.

Liên quan hôn nhân – gia đình, chắc là chúng ta còn nhớ Thánh LM Tử Đạo Maximilian Kolbe (1894-1941), người sẵn sàng chết thay cho một tù nhân vì thương anh ta còn vợ con. Ngàiphân tích: “Chất độc nguy hiểm nhất trong thời đại của chúng ta là SỰ LÃNH ĐẠM. Vì thế, hãy cố gắng chúc tụng Thiên Chúa hết khả năng của mình”. Thật đáng sợ đối với sự thờ ơ, dửng dưng, lãnh đạm, vô cảm. Nó vô hình nhưng có thể giết chết mọi mối quan hệ – nhất làtrong quan hệ hôn nhân và gia đình.

Đây là những Phép Tính của hôn nhân và gia đình: Hãy CỘNG lại những niềm vui, hãy TRỪ đi những nỗi muộn phiền, hãy NHÂN lên những niềm hy vọng, hãy CHIA sẻ chân thành, và đừng CHIA rẽ bao giờ! Sẽ chẳng làm được gì nếu không có ơn Chúa, nhưng có ơn Ngài thì làm gì cũng được.

Lạy Thiên Chúa chí thánh, sống đời hôn nhân là một cuộc tử đạo liên lỉ, cần nhiều ơn thánh để duy trì gia đình, xin giúp họ luôn sống trung thành với lời hứa yêu thương, biết bảo vệ sự sống, biết yêu quý trẻ em và học ở chúng bài học đơn sơ, đặc biệt là sống trung thành với Ngài trong mọi hoàn cảnh. Xin Đức Maria và Đức Giuse đồng hành và cầu giúp nguyện thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Ga 18,33-37

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT XXXIII THƯỜNG NIÊN- LỄ KITÔ VUA, NĂM B, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CN 34BB LỄ KITÔ VUA (Ga 18,33-37) I.TÀI LỆU GỢI Ý             Ngữ cảnh Trong đêm, …