Thánh Tâm Đức Chúa Chứa Chan Thương Xót
Lòng Dạ Con Người Lai Láng Oán Thù
Ngày xưa, trên Canvê Chúa Giêsu đã bị ác nhân xử tử, chịu chết oan vì quá yêu thương nhân loại, yêu thương đến cùng, chảy ra đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan tường thuật: “Khi đến gần Đức Giêsu và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.” (Ga 19:33-34) Chưa yên, Ngài vẫn tiếp tục chết nhiều lần vì tội lỗi của nhân loại.
Thật vậy, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha xảy ra khi giai đoạn chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chủ nghĩa cộng sản cùng nổi lên ở Âu châu sau Thế Chiến I, người ta đã xử bắn Chúa Giêsu. Bức ảnh “Xử Bắn Chúa Giêsu ngày 7-8-1936” cho thấy các thanh niên cộng sản Tây Ban Nha làm theo chỉ thị của Các Mác – Lênin nhằm “xóa bỏ ảnh hưởng của tôn giáo.” Những kẻ này đã chĩa súng bắn vào bức tượng Thánh Tâm Chúa Giêsu tại Đồi Thiên Thần ở Getafe, Tây Ban Nha. Sau đó, chúng phá hủy tượng Chúa cùng với các đền đài và tượng đá xung quanh.
Được Liên Xô hỗ trợ, cộng quân Tây Ban Nha đã tiến hành chiến tranh trên toàn quốc Tây Ban Nha và chiếm được hầu hết đất nước này. Trong thời gian nắm quyền, chúng đã thi hành triệt để các chính sách như tịch thu ruộng đất tư nhân và tài sản của Giáo Hội, loại bỏ ảnh hưởng của Giáo Hội khỏi trường học, kèm theo tuyên truyền dối trá tạo sự thù ghét và kêu gọi thủ tiêu các Kitô hữu. Trong thời gian này, cộng quân đã giết chết 40 ngàn người, trong đó có hơn 6.800 linh mục và tu sĩ, hơn 10 ngàn giáo dân không chịu bỏ đạo.
Về sau, Tây Ban Nha đã loại bỏ được nạn cộng sản khỏi đất nước, tái thiết lập địa vị của Giáo Hội Công Giáo, xây dựng lại tượng đài Thánh Tâm Chúa Giêsu và tu sửa nhiều công trình tôn giáo khác bị phá hoại trong cuộc chiến. Năm 2007, tại Vatican, Giáo Hội đã tuyên thánh cho hơn 400 vị tử đạo trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha, và là lần tuyên thánh lớn nhất từ trước đến nay. Gần nền cũ còn sót lại của tượng Chúa bị phá hủy năm xưa được xây thêm một nhà thờ lớn, một số tượng đá bị đập vỡ và các lỗ đạn trên đó vẫn có thể nhìn thấy. Không đại dịch nào nguy hiểm bằng đại dịch cộng sản vô thần!
Vào thế kỷ XVII, Chúa Giêsu đã mặc khải Thánh Tâm cho Thánh nữ Marguerite Marie Alacoque, một nữ tu khiêm hạ của Dòng Thăm Viếng ở Paray-le-Monial. Chúa Giêsu cho thánh nữ thấy Thánh Tâm Ngài có lửa cháy với vòng gai quấn quanh, và có lưỡi gươm đâm thâu. Lần hiện ra quan trọng xảy ra trong tuần bát nhật lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu (Corpus Christi) năm 1675, có thể là ngày 16 tháng 6, Chúa Giêsu nói: “Hãy ngắm nhìn Thánh Tâm Ta yêu thương nhân loại biết bao… Nhưng thay vì được biết ơn, Ta chỉ nhận được sự vô ơn…” Ngài yêu cầu Thánh nữ vận động thành lập lễ kính Thánh Tâm vào Thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh. Và ngày 11-6-1899, theo lệnh của ĐGH Lêô XIII, cả thế giới đã được tận hiến cho Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Thánh Tâm chứa đựng Lòng Thương Xót, và Lòng Thương Xót là nhịp đập yêu thương của Thánh Tâm. Thánh Tâm và Lòng Thương Xót không thể tách rời, vĩnh viễn chỉ là MỘT. Trái tim nằm trong cơ thể, vì thế mà Thánh Tâm cũng bất khả phân ly đối với Thánh Thể. Đó là mối liên kết mầu nhiệm trong khối tình Chúa Giêsu.
Thuở xưa, Thiên Chúa mời gọi: “Ai khát, hãy đến; ai muốn, hãy đến lãnh nước trường sinh mà không phải trả tiền.” (Kh 22:17) Chúa Giêsu cũng nhắn nhủ: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11:28) Phàm nhân thật là hạnh phúc, bởi vì thân phận bụi tro chẳng đáng gì mà vẫn được Thiên Chúa ưu ái quá đỗi!
Như chúng ta đã biết, cơ thể con người là kỳ công của Thiên Chúa. Cả cơ thể con người là một khối tổng hòa kỳ diệu. Mỗi cơ phận đều là một thế giới riêng biệt, nhưng trái tim là cơ phận đặc biệt nhất. Tim có nhiệm vụ phân phối máu đi khắp các mạch máu, kể cả trung tâm não bộ. Nếu mắc nối tiếp các mạch máu trong cơ thể sẽ thành một đường dài 96.559 km. Tim còn có điểm đặc biệt là tự đập nhịp, không nhờ sự giúp đỡ của não hoặc cột sống, vì khi lấy tim ra thì nó vẫn “nhảy nhịp.” Kỳ lạ là mỗi cơ tim đều tự đập được.
Trong máu có sự sống. Tim điều phối máu, phân phát sự sống cho cơ thể. Máu được chia thành nhiều nhóm – dựa theo một số chất cacbohydrat và protein đặc thù trên hồng cầu. Có khoảng 46 nhóm khác nhau, nhưng các nhóm chính là O, A, B và yếu tố Rhesus (Rh). Máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu, gây tác hại cho cơ thể. Đặc biệt máu O có thể nhận thêm nhóm máu hiếm 2 là OA. Nghiên cứu thấy có 1-7 người trong nhóm này thuộc hệ nhóm máu người được ghi nhận bởi Tổ chức Quốc tế về Truyền máu (ISBT – International Society of Blood Transfusion, thành lập năm 1935, có khoảng 1700 thành viên ở 97 quốc gia).
Ở động vật, đặc biệt là con người, trái tim độc đáo cả về lý tính và hóa tính. Không chỉ vậy, trái tim còn là “trung tâm tình cảm” (đầy đủ thất tình của con người – hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Tim là trung tâm sự sống, tim chết thì người ta chết. Não chỉ là trung tâm điều khiển. Vì thế, tim rất quan trọng, nó cần duy trì khỏe mạnh ổn định chứ không thể yếu hoặc thất thường. Tim mà đau thì cả thân xác rời rã. Cơn đau tim có thể xảy ra với bất kỳ ai, dù già hay trẻ, dù nam hay nữ, và cơn đau tim thường xảy ra vào buổi sáng (từ khoảng 6 giờ tới trưa). Khi lên cơn đau tim, người ta có thể tử vong trong vòng bốn giờ.
Theo cảm nhận, người ta thường dùng hình trái tim có lưỡi gươm đâm thâu để diễn tả tình yêu. Điều đó cho thấy “yêu là khổ,” vì yêu phải CHO nhiều hơn NHẬN. Như vậy, yêu không chỉ “khổ” mà còn “lỗ” to! Thế nhưng không ai lại không thích yêu. Đó là loại thuốc “đắng” vô cùng mà ai cũng thích sử dụng. Tim có lý lẽ riêng mà chính lý lẽ cũng không thể lý giải. Quả thật, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban chính Con yêu dấu của Ngài là Đức Kitô, (Ga 3:16) chính Chúa Giêsu cũng yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, (Rm 5:8) Ngài si tình đến mức chịu khổ nạn và chịu chết để chứng minh tình yêu Ngài dành cho mỗi chúng ta.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là Trung Tâm Tình Thương, luôn tuôn chảy Nguồn Tình với hai dòng Máu và Nước. Dù chỉ là tội nhân, nhưng chúng ta được diễm phúc trở thành con cái của Thiên Chúa, là “dân riêng” của Ngài: “Anh em là một dân thánh hiến cho Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em. Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em đã chọn anh em từ giữa muôn dân trên mặt đất, làm một dân thuộc quyền sở hữu của Người.” (Đnl 7:6) Chắc chắn nhân loại không thể nào hiểu thấu Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đúng là Ngài si tình thực sự. Tại sao? Đây là lý do: “Đức Chúa đã đem lòng quyến luyến và chọn anh em, không phải vì anh em đông hơn mọi dân, thật ra anh em là dân nhỏ nhất trong các dân. Nhưng chính vì yêu thương anh em, và để giữ lời thề hứa với cha ông anh em, mà Đức Chúa đã ra tay uy quyền đưa anh em ra và giải thoát anh em khỏi cảnh nô lệ, khỏi tay Pharaô, vua Ai Cập.” (Đnl 7:7-8)
Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Thân phận con khốn khổ nghèo hèn, nhưng Chúa hằng nghĩ tới.” (Tv 40:18) Còn chúng ta quá tệ bạc, vẫn không ngừng vô ơn bội nghĩa! Phân tích tỉ mỉ hơn, Kinh Thánh nhắc nhở: “Anh em phải biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành: cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người. Còn ai thù ghét Người thì Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa, khiến nó phải chết; với kẻ thù ghét Người, Người không trì hoãn, Người nhằm chính bản thân nó mà trả đũa.” (Đnl 7:9-10)
Có lẽ chúng ta cảm thấy cách nói của Cựu Ước có “tính hù dọa,” nhưng thời đó là thời “mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, chỗ gãy đền chỗ gãy,” (Xh 21:24; Lv 24:20; Đnl 19:21) nên ngôn ngữ diễn tả “thô” và thẳng thắn như vậy thôi. Ông Môsê kết luận rạch ròi: “Vậy anh em phải tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định mà hôm nay tôi truyền cho anh em đem ra thực hành.” (Đnl 7:11) Và chắc chắn chúng ta không thể không thực hiện. Cựu Ước vẫn luôn cần cho thời đại ngày nay. Chúa Giêsu cũng không hủy bỏ luật Môsê, mà Ngài kiện toàn lề luật. (Mt 5:17)
Được làm người, bổn phận của chúng ta không chỉ có vậy, một trong các bổn phận quan trọng khác là chúc tụng và tạ ơn Chúa. Thánh Vịnh gia tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người.” (Tv 103:1-2) Đó cũng là lời nhắc nhở chúng ta, nghĩa là chúng ta phải làm vậy vì nhiều lý do: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng. Chúa phân xử công minh,bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Israel thấy những kỳ công Người thực hiện.” (Tv 103:3-7) Chúng ta được chữa lành quá nhiều, không thể vô ơn mà phải biết tạ ơn.
Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không chỉ mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải yêu thương nhau. Hoàn toàn hợp lý. Tông đồ Gioan lý luận: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai KHÔNG yêu thương thì KHÔNG biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:7-8) Rất rạch ròi, rất rõ ràng!
Thánh Gioan giải thích: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.” (1 Ga 4:9-10) Và tông đồ trẻ này đã đưa ra cái “nếu” khiến chúng ta phải “đâu cái điền,” nhưng cũng là lời mời gọi: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Thiên Chúa chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. NẾU chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta. Phần chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng: Chúa Cha đã sai Con của Người đến làm Đấng cứu độ thế gian.” (1 Ga 4:11-14)
Tin vào tình yêu Thiên Chúa là tín thác vào lòng thương xót của Ngài, tin bằng cả con người của chúng ta chứ không bằng môi miệng hoặc theo phong trào. Thật là chí lý với hệ lụy lô-gích và minh nhiên: “Hễ ai tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy, và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1 Ga 4:15-16)
Có lần Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài đã làm mà không sám hối, Chúa Giêsu thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11:25) Ngài nói với họ: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” (Mt 11:27) Họ là ai? Là những người “chứng kiến phép lạ mà không sám hối” và cũng là chúng ta, vì chúng ta cũng đã chứng kiến nhiều phép lạ trong đời thường mà đức tin èo uột, vẫn cứ “đua nhau” tìm kiếm “sự lạ” ở nơi kia hoặc nơi nọ, hằng ngày chính mình vẫn nhận lãnh phép lạ mà lại coi như là “chuyện dĩ nhiên” vậy.
Chúa Giêsu vẫn kiên trì mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11:28-30) Hiền hậu và khiêm nhường liên quan chặt chẽ với nhau, êm ái và nhẹ nhàng cũng có liên quan lẫn nhau, từng giây phút cho tới suốt đời. Và Ngài tha thiết mời gọi không ngừng: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy.” (Ga 15:9)
Về “tình trạng” ở-lại-trong-tình-thương đó, chính Ngài giải thích: “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người.” (Ga 15:10) Không còn mơ hồ, và cũng không thể hiểu theo cách khác. Yêu ai thì “chiều” theo người đó, muốn làm vừa lòng người đó và muốn nên giống người đó. Ngày xưa, Thiên Chúa đã thốt lên: “Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín, chúng được kêu mời hãy vươn lên, mà chẳng một ai ngóc đầu dậy!” (Hs 11:7) Ngày nay, Ngài cũng vẫn nói với những con người của thế kỷ XXI như vậy. Thất đáng quan ngại biết bao!
Oan ức có thể là danh từ kép hoặc tính từ. Với Việt ngữ, chữ đó có thể có hai tình trạng: Oan và Ức. Chúa Giêsu chịu chết “oan” vì yêu thương, vì thương xót, nhưng Ngài không “ức” mà còn xin Chúa Cha tha thứ cho kẻ giết mình. Còn chúng ta, có bị “oan” chút xíu, chẳng đáng gì, mà cứ “ức” mãi, đến nỗi có người tìm cách trả thù kẻ gây oan trái cho mình.
Kính lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, Ngài đã vì chúng con mà chịu chết, Dấu Tình muôn thuở còn đó là vết lưỡi giáo nơi Thánh Tâm Ngài, trở nên Cửa Lòng Thương Xót cho chúng con vào nương náu. Xin giúp chúng con biết thương xót người khác như chính mình, xin giúp chúng con biết xóa mình ra không như Ngài, xin cho chúng con sống dồi dào nhờ Thánh Thể và Thánh Tâm Ngài mãi mãi. Ngài là Đấng cứu độ duy nhất, hằng sinh và hiển trị với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
TRẦM THIÊN THU