Home / Suy Niệm Lời Chúa / Những Bài Suy niệm Tin mừng Tết Đinh Dậu, của Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

Những Bài Suy niệm Tin mừng Tết Đinh Dậu, của Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển

LỄ TẤT NIÊN

ĐƯỢC TẠ ƠN CHÚA LÀ MỘT HỒNG ÂN

Biết ơn là một hành vi hết sức nhân văn của con người ở mọi thời và mọi nơi. Ai càng biết ơn nhiều bao nhiêu, người đó càng trở nên người hơn bấy nhiêu. Vì thế, khi ta nhận được một ân huệ nào đó của ai, ta thường nói lời cám ơn. Người không biết cám ơn là người sống chưa trưởng thành đủ. 

Chiều tối hôm nay, chúng ta quy tụ nhau tại nơi đây để cử hành thánh lễ tất niên. Gọi là tất niên, vì đây là thời điểm kết thúc 365 ngày của năm cũ. Nhìn lại, trong suốt một năm qua, chúng ta lãnh nhận biết bao ơn lành đến từ Chúa. Vì thế, thái độ tạ ơn là điều rất chính đáng và phải đạo để dâng lên cho Chúa trong thánh lễ hôm nay.

  1. Kinh Thánh dạy cho con người biết phải tạ ơn

Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy đây đó, rất nhiều chỗ nói về thái độ biết ơn cần phải có của con người đối với Thiên Chúa. 

Chẳng hạn như trong Thánh Vịnh, chúng ta bắt gặp câu: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 136); hay: “Lạy Chúa, xin dâng lời cảm tạ, vì Ngài đã nghe lời miệng con xin” (x. Tv 138); và “Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ, gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta” (Tv 147).

Tâm tình tạ ơn chúng ta còn tìm thấy ngay trong bài đọc I hôm nay. Tiên tri Isaia đã nhắc lại cho dân về những ân tình mà Thiên Chúa đã vì yêu thương mà ban tặng cho con người, ngài nói: 

“Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Đức Chúa, dâng lời ca tụng Đức Chúa, vì tất cả những gì Đức Chúa đã thực hiện cho chúng tôi vì lòng nhân hậu lớn lao của Người đối với nhà Itraen, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy thương xót và lắm nghĩa giàu ân” (Is 63, 7).

Sang bài đọc II, thánh Phaolô cũng nhắc cho dân về tình yêu và lượng hải hà mà Thiên Chúa ban nơi Đức Giêsu. Hơn nữa, chính thánh nhân là người đã cất cao lời tạ ơn Chúa thay cho con cái của mình: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu”.  Đây là hành động nêu gương cho cộng đoàn của ngài về thái độ biết ơn Chúa (x. 1 Cr 1,3-9). Thánh nhân còn mời gọi: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18).

Đỉnh cao của thái độ tạ ơn chính là ơn cứu chuộc. Tâm tình này đã được Giáo Hội đưa vào Kinh tiền tụng IV như sau: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.

Tuy nhiên, muốn tạ ơn cho xứng đáng, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria trong bài Tin Mừng hôm nay.

2.Thái độ tạ ơn của Mẹ Maria và của chúng ta

Khi ý thức được thân phận tôi hèn nơi mình, nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương và trao ban một ân huệ lớn lao là được trở thành Mẹ Thiên Chúa ngang qua việc cưu mang và sinh hạ Đức Giêsu. Ngay lập tức, mẹ đã coi đây là ân huệ lớn lao không chỉ cho riêng Mẹ, nhưng cho toàn thể nhân loại qua muôn ngàn thế hệ, vì thế, Mẹ đã cất lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.

Lời tạ ơn này phải là lời tạ ơn kiểu mẫu cho hết mọi người ở mọi nơi.

Thế nên, ngay lúc này, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để: Tạ ơn Chúa vì hồng ân sự sống, hồng ân Đức Tin; tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi mình và tha nhân; Tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu giúp, bênh đỡ ta khỏi muôn điều ác hại.

Như vậy, hành vi tạ ơn của chúng ta không chỉ dừng lại nơi thánh lễ hôm nay, mà nó phải kéo dài trong suốt cuộc đời của mình. Nó cũng không dừng lại ở khía cánh nhất thời, nhưng phải liên lỷ; nó không chỉ dược cất lên lúc thuận buồm xuôi gió, lúc ăn nên làm ra, lúc thoát khỏi bệnh tật hiểm nguy…mà là trong mọi hoàn cảnh.

Vì thế, tâm tình tạ ơn không có tính thời vụ theo kiểu buôn bán, cũng chẳng phải lâm thời theo kiểu nay người mai ta, nhưng tâm tình tạ ơn phải như nhịp đạp con tim, hơi thở linh hồn…

Khi tạ ơn như thế, chúng ta dễ nhận ra ơn lành của Thiên Chúa trên cuộc đời, và hơn nữa, luôn được bàn tay của Thiên Chúa phù trợ trở che.

Trong giờ phút linh thiêng huyền nhiệm này, chúng ta hãy thành khẩn xin lỗi Chúa vì biết bao lần chúng ta để cho thái độ vô ơn ngự trị trong tâm hồn. Đã biết bao lần chúng ta bị ảnh hưởng và đi đến những tuyên bố trắng trợn rằng: những gì tôi có là do công khó của tôi, do tự nhiên có, chứ đâu có bàn tay can thiệp gì của Thiên Chúa.

Xin Chúa tha thứ những tội lỗi ấy cho chúng ta. Và giờ đây, chúng ta hãy cùng với chính hy tế của Đức Giêsu trên bàn thờ để dâng lên Thiên Chúa trong tâm tình tạ ơn, để Ngài ban nhiều ơn lành cho chúng ta.

Đây chính là tâm tình và sứ điệp của Lời Kinh tạ ơn Magnificat mà Đức Trinh Nữ Maria đã cất lên trong bài Tin Mừng chúng ta vừa đón nghe. Amen.

LỄ GIAO THỪA – TẾT NGUYÊN ĐÁN

XIN CHÚA TƯƠI NÉT MẶT NHÌN ĐẾN CHÚNG TA

(Ds 6, 22-27; 1 Tx 5, 16-26. 28Mt 5, 1-10)

Trong một năm, giờ phút này có lẽ là giờ phút thiêng liêng nhất! Bởi vì đây là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, thời mà cha ông ta vẫn gọi với cụm từ rất thân thương: “Tống cựu – nghinh tân”.

Trong giờ phút này, nhiều nơi có những phong tục, truyền thống, lễ hội diễn ra nhằm tạm biệt năm cũ và chào đón năm mới. 

Họ cũng thường cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp trong khoẳng khắc này. Nào là: cầu chúc cho ông bà khỏe mạnh; cho anh chị hạnh phúc; cho con cháu ngoan hiền, cho công việc thuận lợi, cho hoa màu tốt tươi…

Sự mong ước đó được nhiều người thể hiện qua mâm ngũ quả như: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung hay qua những cành lộc tươi tốt, xum xuê hái được trong giờ khắc linh thiêng của đêm giao thừa. 

Tuy nhiên, với người Công Giáo, niềm tin dạy cho chúng ta rằng: trong khi vui mừng đón mùa xuân đát trời, xuân tự nhiên, thì chúng ta còn có một niềm vui khác, đó là niềm vui tinh thần, niềm vui Tin Mừng, bởi vì qua mùa xuân hữu hạn, chúng ta được mời gọi hướng về Chúa là Mùa Xuân Vĩnh Cửu.

Vì thế, trong giờ phút này, cộng đoàn chúng ta quy tụ quây quần bên nhau trong Thánh Đường, để nguyện xin Chúa chúc phúc, đồng thời cũng để bày tỏ niềm tin yêu và phó thác nơi Thiên Chúa Ba Ngôi, vì chính người là Niềm Vui và là Mùa Xuân Vĩnh Cửu.

  1. Con người là trọng tâm của lời chúc phúc

Tác giả Thánh Vịnh đã diễn tả sự chúc phúc và niềm phó thác ấy qua lời cầu nguyện: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ Núi Thánh Sion” (Tv 134, 3). Trong sách Dân Số, tác giả cũng dẫn đưa con người về lời cầu nguyện hướng Thiên như vậy: “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em và dủ lòng thương anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” (Ds 6, 24-26). 

Khi cất lên lời cầu nguyện với Thiên Chúa như thế, tác giả muốn đặt Thiên Chúa vào trọng tâm của đời sống con người, bởi vì chính Người cũng đã coi con người là trọng tâm của công trình tạo dựng. Điều này đã được sách Dân Số chứng minh: “Chúc như thế là đặt con cái Itraen dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6, 24-27).

Còn niềm vui, hạnh phúc nào hơn cho bằng khi con người được Thiên Chúa rủ thương chúc phúc. Người chăm sóc chúng ta như gà mẹ ấp ủ đàn con, như người cha yêu thương con cái, như người bạn đỡ nâng đồng hành, như người chồng ấp ủ thương yêu! (x. TSNTLTX, số 6 ).

Đứng trước hồng ân lớn lao đó, tác giả Thánh Vịnh một lần nữa không khỏi ngỡ ngàng thốt lên:  “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?” (Tv 121, 1), Nhưng ngay lập tức, tác giả đã xác định không chút do dự: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121, 2).

Gợi lại một vài điểm như thế để thấy được rằng: Thiên Chúa là Đấng một dạ xót thương, Ngài luôn nhẫn nại và tha thứ tội lỗi, chữa lành bệnh tật, bao bọc chúng ta bằng ân sủng và tình thương (x. Tv 103, 3-4; 146, 7-9  ); Vì thế, thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5, 16-18). Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí […] Hãy cân nhắc mọi sự: điều gìtốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1 Tx 5, 19-22).

2.Mùa xuân đích thực là chính Chúa

Năm cũ đã qua, năm mới đang đến, có lẽ mọi người trong nhà thờ này đều mong muốn năm mới được mọi sự tốt đẹp…! Tuy nhiên, với những người có niềm tin nơi Chúa, chúng ta phải hướng lời cầu nguyện nơi mình vào trọng tâm ơn cứu chuộc, đó là: mong sao cho mình được đi trong đường lối của Thiên Chúa, được lòng thương xót của Người ấp ủ, bảo vệ, xin Người thương cứu giúp ta khỏi lỡ chân trật bước, giữ gìn ta khỏi mọi điều bất hạnh, ban cho sinh mệnh được an toàn (x. Tv 121, 3-8). Xin cho mình luôn được sự bình an của Chúa. 

Như thế, hạnh phúc là điều con người luôn mong mỏi đợi trông. Nhưng như những gì đã chia sẻ, thì niềm vui, bình an và hạnh phúc đích thực của chúng ta khác hẳn với những người không có niềm tin. Vì thế, thật ý nghĩa khi trong đêm giao thừa này, chúng ta được nghe bài Tin Mừng nói về Tám Mối Phúc Thật. Tuy nhiên, Tám Mối Phúc này chỉ có những ai tin tưởng và khao khát đi tìm Mùa Xuân Vĩnh Cửu thì mới cảm thấy thuận tai và vui mừng, còn những ai không có niềm tin thì đây chính là tám mối họa, vì nó ngược đời, nghịch nhĩ!

Thật vậy, muốn được hạnh phúc đích thực, chúng ta phải sống khó nghèo theo tinh thần Tin Mừng, hiền lành, nhân hậu như Thiên Chúa, sầu khổ vì những tội lỗi đã phạm, khát khao những điều công chính, thương xót mọi người, sống trong sạch, xây dựng hòa bình và sẵn sàng làm chứng cho Chúa dù có phải đầu rơi máu đổ. 

Tất cả những mối phúc đó, chúng ta cần phải có đức tin để không thấy cái ngược đời mà là thuận đời, không nghịch nhĩ mà thuận tai… 

Mong sao, tết đến, xuân về, mỗi người chúng ta hãy đổi mới tinh thần và thể xác, hãy mặc lấy Mùa Xuân Vĩnh Cửu là chính Đức Kitô, để Ngài là niềm vui đích thực của chúng ta.
“Nguyện Đức Chúa ban phúc lành và gìn giữ anh chị em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh chị em và dủ lòng thương anh chị em! Và Chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng trong suốt Năm Mới này”.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, chúng con xin cảm tạ Chúa đã yêu thương gìn giữ chúng con trong suốt năm qua, giờ đây. Chúng con xin dâng năm mới này lên cho Chúa, để xin Người ban bình an, niềm vui và hạnh phúc cho chúng con. 

Xin cho mỗi người chúng con dù ăn, dù nói, làm việc hay nghỉ ngơi, luôn hướng về Mùa Xuân Vĩnh Cửu trên Thiên Quốc. Amen.

MỒNG MỘT TẾT NGUYÊN ĐÁN

CHÚA LÀ MÙA XUÂN VĨNH CỬU

(St 1,14-18; Pl 4,4-8; Mt 6,25-34)

Trong bầu không khí hân hoan của cả dân tộc đón mừng năm mới, chúng ta quy tụ nhau nơi ngôi nhà thờ thân thương này, để cùng nhau ca tụng Thiên Chúa là Mùa Xuân Vĩnh Cửu thì thật là ý nghĩa và hợp lý biết chừng nào!

Khi niềm vui của chúng ta được quyện vào tình thương của Chúa, thì niềm vui của mỗi người được trở nên trọn vẹn. Điều này đã được thánh Phaolô nhắc các tín hữu của Ngài: “Anh em hãy vui lên trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em” (Pl 4,4).

Không vui sao được, vì đối với người Công Giáo, niềm vui không chỉ dừng lại ở mùa xuân tự nhiên, mùa xuân của đất trời, hay mùa xuân của lòng người, mà niềm vui ấy còn được dâng cao để hòa quyện vào niềm vui Ơn Thánh, niềm vui của Màu Xuân Vĩnh Cửu.

  1. Niềm vui khi mùa xuân tự nhiên đến 

Một quy luật tuần hoàn, sau 365 ngày, đất trời lại có mùa xuân mới. Cứ thế, nó đã đi vào quy luật tự nhiên. Quả thật:“Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận. Xuân đến, xuân đi, xuân lại về”. Có mùa xuân, bởi vì trái đất vần xoay, nên hết xuân sang hạ, hết hạ sang thu, hết thu sang đông và hết đông lại sang xuân.

Đây là quy luật của Tạo Hóa, Đấng đã cho tứ thời bát tiết chuyển xoay… khi mùa xuân đến, mọi người, mọi nhà, đều được hưởng niềm vui!

Vì thế, trên khuôn mặt mỗi người đều nở những nụ cười tươi vui, hạnh phúc, vì ai ai cũng được tận hưởng mùa xuân. Niềm vui ấy không thể giữ lại cho riêng mình, vì thế, chúng ta thường trao tặng cho nhau những lời cầu chúc tốt đẹp. Mong cho mọi người phúc ấm bền lâu, khang an thịnh đạt, phúc, lộc, thọ…

Thật là ý nghĩa khi mỗi người đều mong cho mình và cho tha nhân được: “Tân niên thánh đức bao ân phúc, xuân nhật an hòa mãi phú vinh”.

Tại sao có được niềm vui dạt dào nơi mọi người như vậy, thưa, bởi vì tự đáy lòng, con người cũng nở rộ mùa xuân. 

  1. Mùa Xuân của lòng người

Nếu xuân tự nhiên nơi đất trời là do quy luật tuần hoàn, thì xuân của lòng người hoàn toàn khác, bởi nó không tự đến rồi lại tự đi, mà phải do dày công vun đắp màu xuân mới có. 

Vì thế, mùa xuân nơi lòng người, mỗi người cảm nghiệm mỗi khác, không ai giống ai. Có người thì vui, có kẻ lại buồn. Có người hạnh phúc, có người bất an. Có người được quây quần, có người chia ly. Có người được đoàn tụ, có kẻ bị cô đơn. Có người ấm lòng, có người lạnh tanh… 

Như vậy, mùa xuân năm nay, có lẽ phải đặt ra cho mỗi người chúng ta một câu hỏi mà có nhiều người xem ra thật vớ vẩn, ngẩn ngơ, đó là: tết năm nay, xuân năm nay, bạn buồn hay vui???

Nhưng nghĩ suy một chút thì phải chăng câu hỏi đó không đến nỗi hẩm hiu, nhưng nó gợi lại cho chúng ta về niềm vui, hạnh phúc có hay không trong năm mới, trong mùa xuân này!

Thật ra thì năm hết, tết đến, có người vui vì thu được nhiều tiền, buôn may bán đắt, gia đình xum họp, thêm con dâu, có con dể, đầy đủ ấm êm…

Nhưng cũng có biết bao nhiêu cảnh đời éo le! Năm mới mà nhà nghèo hơn ngày thường! Không có tiền, không có tình yêu! Cha mẹ ly tán, con cái bơ vơ…!

Hay nhìn rộng ra, mùa xuân là mùa của niềm vui, của hy vọng, nhưng niềm vui đâu chẳng thấy, hy vọng có lẽ là thứ xa xỉ phẩm khi thấy quá nhiều bất công, áp bức, bóc lột, đâm chém, xì ke ma túy; đạo đức giáo dục xuống cấp, học sinh như người vô học, con cái lếu láo với cha mẹ, cha mẹ vô trách nhiệm với con cái, bạn bè phản bội nhau…

Khi suy nghĩ như thế, chúng ta thấy, niềm vui của lòng người bị giới hạn vào tâm trạng nội tâm, vì thế cảm xúc hoàn toàn khác nhau! 

Tuy nhiên, với người Công Giáo, chúng ta gặp nhau ở một điểm, đó là mùa xuân tự nhiên, kết hợp với lòng người và vươn tới Mùa Xuân Ơn Thánh.

  1. Màu Xuân Ơn Thánh

Nếu mùa xuân tự nhiên cứ đều đặn tuần hoàn nối tiếp: “Xuân khứ, xuân lai, xuân bất tận”, hay mùa xuân của lòng người phụ thuộc vào thành quả hay tâm trạng chủ quan, thì Mùa Xuân Ơn Thánh là một mùa xuân bất diệt, toàn diện và được trao tặng cho hết mọi người…

Tuy nhiên, Mùa Xuân Ơn Thánh này lại phụ thuộc vào mỗi người, nếu đón nhận thì được dồi dào, phong phú, nhưng không đón nhận thì trơ trụi, cằn khô. 

Một trong những nguyên nhân khiến con người không có Mùa Xuân Ơn Thánh, đó là: tâm hồn tràn ngập tội lỗi, ích kỷ, kiêu ngạo, bất công… Những người như thế, họ luôn mang trong tâm hồn mình một trạng thái bất an, tù túng, và không chừng, linh hồn sẽ bị chết chóc, sầu thương ảm đạm! 

Chỉ khi nào con người biết khôn ngoan quay trở về với Chúa, rộng tay làm phúc cho kẻ túng nghèo và lo sống một cuộc đời thánh thiện, thì sẽ được Thiên Chúa ân chúc phúc. Lúc đó, con người mới hưởng được Mùa Xuân Ơn Thánh, nói cách khác, lúc đó Mùa Xuân Vĩnh Cửu mới hiện về trong tâm hồn của con người. 

Nói cách cụ thể hơn, nếu muốn cho mùa xuân trở về trong trái tim chúng ta, thì chúng ta phải thực sự trở nên giống trẻ thơ để đón nhận tình thương của Thiên Chúa, vì Mùa Xuân Ơn Thánh chỉ đến với tâm hồn đơn sơ trong trắng mà thôi. 

Khi có tâm hồn đơn sơ trong trắng, chúng ta phó thác đường đời cho Chúa, và phần còn lại, đó là chúng ta đi trong đường lối của Ngài để được dồi dào ân lộc: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay”. Vì “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho ; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ?”.

Hôm nay, ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta hãy cầu chúc cho nhau một năm mới không chỉ dừng lại ở niềm vui của mùa xuân đất trời, cũng không hệ tại lòng người, nhưng chúng ta luôn hướng lòng về Mùa Xuân Ơn Thánh – Vĩnh Cửu. 

Ước mong Mùa Xuân Ơn Thánh – Màu Xuân Vĩnh Cửu luôn ngự trị trong tâm hồn của chúng ta, để mỗi người chan chứa ân sủng và bình an trong năm mới này.

Kính chúc cộng đoàn một năm mới luôn luôn dạt dào ơn thánh, để: 

“Xuân sang cội phúc sinh nhành lộc. Tết về cây đức trổ thêm hoa”. Amen.

MỒNG HAI TẾT NGUYÊN ĐÁN

KHÔNG CÓ HIẾU LÀ VẤT ĐI!

(Hc 44,1.10-15; Ep 6, 1-4.18.23; Mt 15, 1-6)

Tôn kính tổ tiên và hiếu nghĩa với ông bà cha mẹ là truyền thống và gia sản tốt đẹp của cha ông ta từ bao đời nay. 

Đây là nghĩa cử cao quý mà bất cứ ai, đã sinh ra làm người thì khi đến tuổi khôn đều phải được dạy cho biết gia sản quý báu của dân tộc, đồng thời mỗi người phải coi đây là bổn phận, nghĩa vụ trong lòng mến chứ không chỉ đơn thuần là tình cảm tự nhiên. 

Ngược lại, nếu ai sống một cuộc đời bất hiếu, thì có thể kể hạng người đó vào số những người vô giáo dục, hay không phải là con người đúng nghĩa!

Hôm nay, Giáo Hội dành riêng ngày mồng hai tết cổ truyền của dân tộc để mời gọi con cái mình hướng về cội nguồn để cầu nguyện cho các bậc sinh thành, và noi gương sáng của các ngài để lại, hầu có thể làm sáng danh Thiên Chúa, rạng rỡ gia phong và vẻ vang dân tộc… đây chính là: “Của lễ làm đẹp lòng Thiên Chúa” (Cl 3,20).

  1. Đạo hiếu ngày xưa 

Ngày xưa, cha ông ta rất coi trọng chữ hiếu. Chữ hiếu được đưa lên hàng đầu vì: ”Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, thời suy ra trăm nết đều nên”. 

Vì thế, khi đánh giá một người nào, các cụ ta thường hay xem họ có hiếu nghĩa với ông bà, cha mẹ, sống có tình nghĩa với anh chị em trong gia đình và làng xóm không? 

Còn khi chọn ai đó làm quan, nhà vua thường dựa trên quy luật: “Tướng – Hàm –Hiếu”. Tức là phải có tướng mạo, học hành giỏi giang và có hiếu với bậc sinh thành. Tuy nhiên, hiếu nghĩa quyết định người đó đậu hay không.

Khi người xưa coi trọng chữ hiếu như vậy, các bậc tiền bối của chúng ta coi chữ hiếu là căn cốt, là bản lề, là cột trụ trong việc hình thành nhân cách cũng như nền tảng xây dựng xã hội và nghề nghiệp.

Theo truyền thống Nho giáo, trong các tội người ta phạm thì tội bất hiếu là tội nặng nhất, bởi lẽ: “Người ta có cha có mẹ, không ai ở chỗ nẻ chui lên”, nên: “Người ta có cố có ông, như cây có cội như sông có nguồn”.

Vì thế, người thời xưa, sáng ngày mồng một, con cháu quy tụ về nhà tổ để làm lễ gia tiên với người đã khuất, sau đó đến phần bày tỏ hiếu nghĩa với người còn sống.

2.Đạo hiếu ngày nay

Trên đây là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta khi nói và sống chữ hiếu. Còn ngày nay thì sao?

Nếu ngày xưa, nhà nhà, người người coi lễ giáo gia phong, tôn ty trật tự, hiếu nghĩa thảo hiền là điều quan trọng không thể thiếu trong các mối tương quan, thì ngày nay, có khi: “Mò kim đáy biển”. 

Vì thế, trong những ngày giáp tết vừa qua, trên các trang mạng xã hội có đăng tải những tấm hình gây nhiều chú ý, bức xúc kèm theo những lời kết án gắt gao, đó là: hình ảnh một bà cụ già trạc 90 tuổi, bị nhốt dưới bếp và khóa trái cửa, cụ đẩy cửa và nhìn hé ra ngoài, bên dưới là lời nói: “Con ơi, mở cửa cho mẹ, mẹ không lên phòng khách đâu!!!”. Rồi hình ảnh khác, một bà cụ ngồi vệ đường với bát cơm trộn. Cụ vừa ăn vừa khóc! Bên dưới có lời bình: “Cuộc đời vất vả nuôi con, cầu mong con lớn, nhờ con về già! Vậy mà khi tuổi xế tà, sức lực cạn kiệt thân già ốm đau. Con cái thì lại ganh nhau, chăm được ba bữa càu nhàu rên la. Mẹ già cay đắng lệ xa, bát cơm chan lệ như là chan canh”. Ôi đọc mà đau nhói con tim, tê tái tâm hồn!

Rồi nhìn chung quanh, có khi không chừng, ngay cả trong nhà thờ này, vẫn còn đó những đứa con bất hiếu, vô giáo dục khi đối xử với thậm tệ với cha mẹ!

Vì thế, vẫn thấy đây đó nhiều bậc cha mẹ phải bỏ nhà ra đi hay bị đuổi ra khỏi nhà vì cảnh con dâu quá láo, con trai phụ bạc, các cháu hỗn hào… Ôi thật đau xót biết chừng nào!!!

Những hạng người bất hiếu trên, có lẽ họ quên mất một quy luật tất yếu, đó là: “Sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó”. 

Có một câu chuyện kể rằng: một hôm, anh con trai mua một cái sọt, rồi nhốt cha già trong đó và mang vào rừng bỏ đói cho chết. Thấy vậy, con trai anh tuy còn nhỏ, nhưng đã ý thức và đau xót nên nói với cha mình rằng: “Ba đem ông vào rừng rồi sau đó mang sọt về cho con nhé”. Người cha liền hỏi: “Mang về làm gì?” Người con đáp: “Để sau này có cái mà nhốt cha!”. Đây quả là quy luật tất yếu dành cho kẻ bất hiếu.

3.Đạo hiếu trong truyền thống Công Giáo

Đối với người Công Giáo, đạo hiếu không chỉ là một bổn phận phải có đối với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, mà còn là đòi hỏi, là lệnh truyền, là giới răn của chính Thiên Chúa. 

Trong thập giới, Thiên Chúa dành ra giới răn thứ tư để truyền phải giữ, đó là: “Thảo kính cha mẹ”. Giới răn này chỉ đứng sau những giới răn tôn thờ Thiên Chúa. Như vậy, ngoài bổn phận với Thiên Chúa, người Công Giáo phải trung thành tuân giữ lòng hiếu nghĩa với tổ tiên.

Khi hiếu kính với tổ tiên, chúng ta sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và tha thứ lỗi lầm, vì: “Ai tôn thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (Hc 3,3-4). Thánh Phaolô thêm: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này (Ep 6,1-3); vì: “Ai vâng lời cha mẹ trong mọi sự sẽ đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20) và sẽ được Thiên Chúa sẽ nhận lời người hiếu nghĩa cầu xin (x. Hc 3,8).

Còn với Đức Giêsu, ngài nhắc lại và kèm theo cảnh báo: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử” (Mt 15,4).

4.Thi hành việc hiếu nghĩa

Như những gì đã chia sẻ ở trên, chúng ta thấy chữ hiếu đối với người Công Giáo thật là quan trọng, nó kéo theo việc được chúc lành hay chúc dữ tùy vào thái độ của chúng ta. 

Thiết nghĩ, ngay trong giây phút này, mỗi người hãy làm mới lại tinh thần hiếu nghĩa đối với tổ tiên, ông bà cha mẹ.

Trước tiên, chúng ta hãy cầu nguyện, kết hợp với những hy sinh để cầu cho linh hồn các bậc tổ tiên đã ra đi, đồng thời cầu nguyện cho những bậc còn sống được bình an. Hãy nhớ nằm lòng câu ca dao sau: “Cây có gốc mới nở ngành sinh ngọn. Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu. Người ta có gốc từ đâu! Có cha có mẹ rồi sau có mình”.

Thứ đến, hãy vui vẻ lễ phép, chăm lo cơm cháo, đồng quà tấm bánh, nhất là lo thuốc thang khi các ngài ốm đau bênh tật. Sống yêu thương, kính trọng như lời Kinh Thánh dạy: “Con ơi, hãy săn sóc cha con khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người.  Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi con” (Hc 3,12-14).

Cuối cùng, nếu ai đã hỗn sược, lếu láo với bậc sinh thành, ngay lập tức, sau thánh lễ này, hãy xin lỗi các ngài và quyết tâm sửa sai. Nên nhớ rằng, đây là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi cho mình hay không.

Ước gì, trong dịp tết năm nay, nhất là trong ngày cầu cho tổ tiên, cũng như hằng ngày trong đời sống, mỗi người chúng ta phải thực sự là tấm gương cho con cháu về lòng hiếu nghĩa với các bậc tổ tiên, để như một quy luật tất yếu, con cái sẽ noi gương và báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của chúng ta hôm nay và ngày mai. Amen.

MỒNG BA TẾT NGUYÊN ĐÁN

“MƯU SỰ TẠI NHÂN, THÀNH SỰ TẠI THIÊN”

(St 2,4b-9.15; Cv 20,32-35; Mt 25,14-30)

“Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Ấy là câu nói cửa miệng của những ai tin vào Thiên Chúa, Đấng là chủ tể mọi loài.

Với thánh Phaolô, ngài xác tin mạnh mẽ và quy hướng mọi sự về Thiên Chúa. Ngài khẳng định: “Phaolô trồng, Apollô tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới làm cho mọc lên” (1Cr 3,6).

Hôm nay, ngày mồng ba tết, cộng đoàn quy tụ nơi đây, để cùng nhau xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm cho chúng ta trong suốt năm mới.

Tuy nhiên, đây còn là dịp để chúng ta bày tỏ thái độ tích cực về lao động cũng như tìm hiểu về ý nghĩa, giá trị của lao động trong nhiệm cục cứu chuộc của Thiên Chúa.

  1. Trở về nguồn để hiểu giá trị của lao động

Ngay từ thủa ban đầu của xã hội loài người, chúng ta thấy Tổ tông Ađam và Eva đã được Thiên Chúa trao ban vườn Địa Đàng để:  “Canh tác và giữ vườn” (St 2,15). Mặc dù nơi đây là một nơi đầy đủ và hạnh phúc dồi dào! Tuy nhiên, con người không được ở yên, mà vẫn phải giữ vườn và canh tác…

Sang thời Đức Giêsu,  chính Ngài đã nói với dân chúng rằng: “Cho đến nay, Cha Ta vẫn làm việc, thì Ta cũng làm việc” (Ga 5,17).  

Ngài không chỉ nói, mà chính Ngài đã kinh qua trong suốt thời gian sống ẩn dật 30 năm trường trong gia đình Nazareth. Ngài đã cùng thánh Giuse lao động để kiếm tiền lo cho gia đình… Điều này đã được chính những người đồng hương với Ngài chứng minh: “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con bà Maria sao?”(Mc 6,3).

Với thánh Phaolô, ngài coi lao động là một việc làm có giá trị, nên một đàng thánh nhân loan báo Tin Mừng, đàng khác, ngài không ngừng lao động chân tay để tránh sự phiền hà cho tín hữu. Khi lời nói đi đôi với hành động, thánh nhân đã cất lên lời khuyên bảo: “Ai không làm việc thì đừng ăn. Thế mà chúng tôi nghe nói trong anh em có những người sống vô kỷ luật, ăn không ngồi rồi, lại dây mình vào đủ chuyện. Đối với những người ấy, chúng tôi kêu mời và khuyến khích họ trong Chúa Kitô, hãy bình tâm làm việc và hãy tự tìm cách sinh nhai” (2 Tx 3,10b-13).

Như vậy, lao động là một việc làm chân chính, đáng tôn trọng. Hơn nữa, lao động còn là điều kiện cần để làm người đúng nghĩa. Nếu không lao động, con người không thể thăng tiến!

Bởi vì, lao động là vinh quang và khi lao động sẽ làm cho chúng ta trở nên giống Thiên Chúa hơn. Lao động còn cộng tác với chính Thiên Chúa trong công trình sáng tạo, bởi vì, nhờ lao động, con người không ngừng làm cho thế giới này ngày càng đổi mới, thăng hoa và tốt đẹp. Khi lao động, chúng ta làm cho bức tranh nhân loại đã được Thiên Chúa tác tạo trở nên sống động và khởi sắc từng ngày.

Nói như thế không có nghĩa là Thiên Chúa không thể làm cho hoàn thiện? Không! Ngài là Thiên Chúa quyền năng, nên Ngài làm được mọi sự. Tuy  nhiên, Ngài muốn cho con người cộng tác để sinh ích lợi cho chính chúng ta. 

Hơn nữa, khi lao động, con người có cơ hội làm cho tinh thần minh mẫn, trí óc hoạt động, và nhờ đó mà có thể có những phát minh hữu ích để phục vụ Giáo Hội và xã hội…

Thi hào Voltaire nói: Lao động xua đuổi xa ta 3 mối họa lớn lao ‘Buồn nản, thói hư và cùng túng’”. Sách Nho cũng nói: “Nhàn cư vi bất thiện”, và sách Tây thêm: “Sự ở nhưng là mẹ sinh ra các nết xấu”.

Với thánh Gioan Kim Khẩu thì: mỗi khi con người lao động, họ được tôn trọng hơn. Ngài ví von: “Con ong được quí trọng, vì nó làm việc không những riêng cho nó và cho cả mọi người nữa”.

Vì thế, chúng ta cần phải loại trừ quan niệm lệch lạc về lao động, coi lao động là bần tiện, khổ sai, nô lệ. Đây là cái nhìn nguy hại không chỉ cho đời sống thể xác, mà nó còn nguy hiểm cho đời sống tinh thần.

  1. Ý nghĩa của ngày lễ thánh hóa việc làm

Ngày mồng ba tết được chọn để cầu nguyện xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, Giáo Hội muốn mời gọi con cái mình hãy biết dâng cho Chúa và phó thác nơi Ngài tất cả. Tâm tình này đã được cha ông ta đúc kết thành câu đồng dao vừa để sống, vừa để răn dạy con cháu: 

“Lạy Trời mưa xuống

Lấy nước tôi uống

Lấy ruộng tôi cầy

Lấy đầy bát cơm

Lấy rơm đun bếp”.

Chính niềm tin ấy, đã khiến cho tổ tiên ta luôn cậy dựa bám víu và biết ơn Ông Trời: 

Ơn Trời mưa nắng phải thì

Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu”.

Khi được mưa thuận gió hòa, và con người biết sống kết hợp với Ông Trời thì:

Trời nào có phụ ai đâu!

Hay làm thì giầu, có chí thì nên”.

Tuy nhiên, vẫn có những người tưởng chừng như mọi sự là do mình, nên đã có thái độ kênh kiệu và ngạo mạn với Thiên Chúa. Nhưng kinh nghiệm cho thấy, những người đó không sớm thì muộn, họ sẽ gặp những thất bại thê lương và sẽ chết trong sự ngu dốt của mình.  

Vì thế, ngày mồng ba tết, chúng ta xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm là điều hợp lẽ vì: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công.  Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm” (Tv 127,1).

3.Thế nào là lao động trong công trình cứu chuộc?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng dụ ngôn “các nén bạc” để cho thấy rõ giá trị của lao động. Vì thế, với Lời Chúa vừa nghe, ta hiểu rằng:

Con người hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa và phải có trách nhiệm trước mặt Người.

Vì yêu thương, nên Thiên Chúa ký thác cho ta những nén bạc, và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời thêm. Vì thế, không được phung phí cũng như ích kỷ chôn vùi đi. Nhưng phải làm cho nó sinh lợi theo thánh ý Thiên Chúa.

Như vậy, điều quan trọng giờ đây, đó là chúng ta cần đặt ra câu hỏi: Lao động cách nào cho đẹp lòng Chúa và hữu ích cho linh hồn? 

Câu trả lời, đó là: lao động bằng trí óc và bàn tay chân chính, lao động bằng mồ hôi, khó nhọc của chính mình…

Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận những chuyện làm ăn bất chính như: gian tham, hối lộ, bóc lột; buôn gian bán lận, lừa đảo; cờ bạc, số đề, cá độ; thiết lập những khu ăn trơi trác táng để làm giàu trên thân xác phụ nữ chốn lầu xanh… 

Những thứ đó không phải là công khó của chính mình, mà là của người khác. Thế nên, không có ý nghĩa và giá trị cứu chuộc, vì không được Thiên Chúa chúc lành. Ngược lại, nén bạc Chúa trao cho chúng ta và đòi hỏi chúng ta phải sinh lời ra, đó là: từ bi, nhân hậu, công bằng, bác ái; liên đới, cảm thông, sống công chính…

Mong sao, mỗi khi xin Chúa thánh hóa công ăn việc làm, chúng ta biết ý thức sự giới hạn của mình và biết cậy dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, đồng thời, chúng ta cũng biết lựa chọn cách lao động chân chính, để qua đó, tâm hồn chúng ta được hướng thiện và đáng được hưởng ơn cứu chuộc. Amen.

 

 

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …