GIAO TÌNH
(Lễ GIAO THỪA – Tết Nguyên Đán Việt Nam)
Theo chu kỳ tự nhiên của càn khôn, đó cũng chính là Thiên Luật mà Đức Chúa đã ấn định từ thuở khai thiên lập địa, trước khi Ngài tạo dựng con người. Tứ thời, bát tiết vận hành theo đúng quy luật đó. Giữa hai mùa chuyển giao được gọi là giao mùa, đặc biệt giữa mùa Đông và mùa Xuân được gọi là giao thừa.
Giao thừa là “phút linh thiêng”, là khoảnh khắc chuyển giao lại năm cũ để đón nhận năm mới. Người ta có nhiều tục lệ đón giao thừa gọi là Lễ Giao Thừa hoặc Lễ Trừ Tịch, cúng tổ tiên, bói Kiều,… Công giáo không có những dạng mê tín thế này.
Ngoài tục lệ tốt lành theo xã hội, người Công giáo còn có thói quen tốt lành là tham dự Thánh lễ Giao thừa để tôn kính Thiên Chúa Ba Ngôi và kính nhớ Đức Mẹ.
Ai cũng tha thiết cầu mong những điều tốt lành cho năm mới, được thể hiện qua mâm ngũ quả. Mỗi vùng miền có thể dùng những loại trái khác nhau. Nhưng kiêng kỵ là các loại trái có tên gọi “na ná” với từ có nghĩa xấu như cam (cam chịu), chuối (chúi đầu, chúi mũi, tức là vất vả). Ngược lại, các loại trái ở Nam bộ được ưa thích như trái thơm (dứa, ý nói thơm tho, danh thơm tiếng tốt), trái sung (sung túc). Đủ một câu thể hiện sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài); hơn mức đầy đủ thì gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài sung).
Giao thừa là một cuộc giao tình kỳ diệu và thánh đức. Đối với các Kitô hữu, Thiên Chúa mới chính là Chúa Xuân đích thực. Người lương tổ chức cúng kiếng trong phút giao thừa, người Công giáo có Thánh lễ Giao thừa, kính dâng Thiên Chúa khoảng thời gian tinh khôi nhất của đầu năm mới. Và ngay từ đầu Thánh lễ, Giáo hội dùng lời Kinh thánh để cầu chúc mọi người trong giây phút giao thừa: “Cúi xin Đấng tạo thành trời đất xuống cho bạn muôn vàn phúc cả từ Núi Thánh Sion” (Tv 134:3).
Tất cả các nghi thức đều nhằm phục vụ con người, cũng như luật lệ là để phục vụ con người. Không nên câu nệ hình thức mà “bắt” con người phải phục vụ nghi thức hoặc luật lệ! Đức Chúa truyền cho ông Môsê phải nói với A-ha-ron và các con về “công thức” chúc lành cho con cái Ít-ra-en: “Nguyện Đức Chúa CHÚC LÀNH và GÌN GIỮ anh em! Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt NHÌN đến anh em và dủ lòng THƯƠNG anh em! Nguyện Đức Chúa ghé mắt NHÌN và BAN bình an cho anh em!” (Ds 6:24-26). Sao lại phải chúc như vậy? Chính Thiên Chúa giải thích: “Chúc như thế là đặt con cái Ít-ra-en dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6:24-27).
Thật tuyệt vời vì chúng ta luôn được Thiên Chúa quan tâm, chăm sóc, nâng đỡ, bảo vệ, chúc lành,… Tác giả Thánh vịnh đã từng thắc mắc: “Tôi ngước mắt nhìn lên rặng núi, ơn phù hộ tôi đến tự nơi nao?” (Tv 121:1), nhưng tác giả lại xác định ngay: “Ơn phù hộ tôi đến từ Đức Chúa, là Đấng dựng nên cả đất trời” (Tv 121:2).
Năm cũ vừa giã từ, năm mới vừa sang. Chúng ta hãy thành tâm cầu chúc nhau những điều tốt lành nhất: “Xin Đấng gìn giữ bạn đừng để bạn lỡ chân trật bước, xin Người chớ ngủ quên. Đấng gìn giữ Ít-ra-en, lẽ nào chợp mắt ngủ quên cho đành! Chính Chúa là Đấng canh giữ bạn, chính Chúa là Đấng vẫn chở che, Người luôn luôn ở gần kề. Ngày sáu khắc, vầng ô không tác hoạ, đêm năm canh, vành nguyệt chẳng hại chi. Chúa giữ gìn bạn khỏi mọi điều bất hạnh, giữ gìn cho sinh mệnh an toàn. Chúa giữ gìn bạn lúc ra vào lui tới, từ giờ đây cho đến mãi muôn đời” (Tv 121:3-8).
Giây phút giao thừa cũng nhắc nhở chúng ta về việc xin lỗi Chúa và tha nhân về những lỗi lầm trong năm cũ, đồng thời cũng phải biết tạ ơn về bao ơn lành mà Thiên Chúa đã trao ban suốt năm qua, tất nhiên cũng xin ơn cho năm mới. Thánh Phaolô mời gọi: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18). Và rồi thánh nhân cũng nhắc nhở: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri. Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì TỐT thì GIỮ; còn điều XẤU dưới bất cứ hình thức nào thì LÁNH cho xa” (1 Tx 5:19-22).
Trong tâm tình chân thành, Thánh Phaolô cầu chúc: “Nguyện chính Thiên Chúa là nguồn mạch bình an, thánh hoá toàn diện con người anh em, để thần trí, tâm hồn và thân xác anh em được gìn giữ vẹn toàn, không gì đáng trách, trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, quang lâm. Đấng kêu gọi anh em là Đấng trung thành: Người sẽ thực hiện điều đó. Chúc anh em được đầy ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Tx 5:23-24 và 28).
Sống trên đời, không ai lại không khao khát được tận hưởng niềm hạnh phúc viên mãn. Cuộc sống có nhiều dạng hạnh phúc theo quan niệm của mỗi người, mỗi vùng, mỗi miền, mỗi dân tộc. Tuy nhiên, có một điều phúc thật mà đôi khi chúng ta hay quên hoặc chưa thực sự lưu tâm, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho mọi người: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).
Tin Mừng đêm Giao thừa là trình thuật Mt 5:1-10, nói về Bát Phúc (Tám Mối Phúc Thật, Hiến Chương Nước Trời, Bài Giảng Trên Núi) đã được Chúa Giêsu công bố lần đầu tiên:
- Phúc thay ai có tâm hồn NGHÈO KHÓ, vì Nước Trời là của họ.
- Phúc thay ai HIỀN LÀNH, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
- Phúc thay ai SẦU KHỔ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
- Phúc thay ai KHÁT KHAO nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
- Phúc thay ai XÓT THƯƠNG người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
- Phúc thay ai có tâm hồn TRONG SẠCH, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
- Phúc thay ai xây dựng HOÀ BÌNH, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
- Phúc thay ai BỊ BÁCH HẠI vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.
Với 8 điều khoản ngắn gọn mà súc tích, Bát Phúc còn được coi là Đệ Nhất Tuyên Ngôn, tức là bản tuyên ngôn đầu tiên đối với nhân loại. Người không có niềm tin vào Thiên Chúa thì không thể nào “chịu nổi” vì cả 8 điều mà Chúa Giêsu cho là PHÚC như vậy, vì tất cả đều “nghịch nhĩ”. Sao mà “ngược đời” quá! Để có thể sống theo kiểu “ngược đời” của Chúa Giêsu thì phải cần đến ĐỨC TIN. Và chính ĐỨC TIN chắc chắn sẽ cứu thoát chúng ta nhờ Danh Đức Giêsu Kitô.
Được trở thành Kitô hữu là một ơn gọi, là vào đời làm NHÂN CHỨNG cho Tin Mừng của Đức Kitô. Tất nhiên chúng ta có thể bị ghen ghét và bị hại – đa dạng, lắm kiểu, nhiều dạng. Thật vậy, Ngài biết trước nên Ngài căn dặn: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Hãy khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16). Con Rắn là loài vừa khôn ngoan vừa xảo quyệt nhất trong các loài động vật. Chính nó đã lừa được Bà Eva bằng lời đường mật, và rồi Ông Adam lại “chết” vì mỹ nhân kế của một phụ nữ “yếu đuối” là chính vợ mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta học cái khôn ngoan của con Rắn chứ đừng nham hiểm như nó!
Xuân về, Tết đến, ai cũng “khác” từ tinh thần đến thể lý, cả trong lẫn ngoài. “Khác” là đổi mới, là canh tân tích cực để tốt hơn chứ không “biến chất”, và phải mãi mãi như Chúa Xuân: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13:8).
Lạy Thiên Chúa Cha, chúng con chúc tụng Cha là Chúa Tể càn khôn. Chúng con xin lỗi Chúa về mọi lỗi lầm năm cũ, xin ban Thánh Linh để chúng con biến đổi nên giống Ngài mỗi ngày mỗi hơn; xin giúp chúng con luôn hướng về Mùa Xuân Vĩnh Hằng trên Thiên quốc; chúng con xin Chúa lì xì nhiều Hồng Ân để chúng con sống trọn vẹn năm mới này; và chúng con cũng xin lì xì cả cuộc đời của chúng con cho Chúa, xin Ngài thương thánh hóa và hướng dẫn chúng con đi đúng Thánh Lộ mà Ngài đã quan phòng và tiền định. Xin cho mọi người được hưởng trọn niềm vui mùa Xuân này.
Nguyện xin Thánh Mẫu Maria, Đức Thánh Giuse, chư Thần và chư Thánh nguyện giúp cầu thay cho chúng con luôn. Nguyện xin Thiên Chúa chúc lành và ban cho mọi người đều có được niềm vui Xuân trọn vẹn. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con. Amen.
GÁNH ĐỜI
(Mồng Một Tết Nguyên Đán – Cầu Bình An)
NGÀY MỒNG MỘT CHUNG LỜI TẠ ƠN CHÚA
NGUYỆN THÁI AN HIỆP NHẤT NIỀM KÍNH TIN
Học giả Nguyễn Hiến Lê có cuốn sách dịch với tựa đề “Quẳng Gánh Lo Đi và Vui Sống” (xuất bản năm 1955, nguyên tác “How to Stop Worrying and Start Living” của tác giả Dale Carnegie, viết năm 1948). Cuốn sách này được coi là cẩm nang về cách làm việc và cách vui sống.
Quẳng là vứt, bỏ. Động từ này thể hiện sự dứt khoát. Quẳng một cái gì đi có thể là động thái dễ hoặc khó, tùy giá trị của cái cần hoặc phải bỏ đi.
Người dân quê Việt Nam có đôi quang gánh thật “kỳ diệu”. Khi người ta gánh, nhìn giống như chiếc cân. Muốn dễ gánh, hai bên phải cân bằng trọng lượng, nếu không sẽ lệch và khó gánh. Khi bỏ đôi quang gánh xuống, người ta cảm thấy thoải mái, vì trút được gánh nặng. Cuộc đời con người cũng luôn có nhiều thứ phải gánh trên đôi vai đời. Một trong những thứ khó trút bỏ là “gánh lo”. Trút được gánh nặng này là điều không hề dễ chút nào!
Không ai lại không có “gánh nợ đời”. Nợ tiền nhân, nợ song thân, nợ xã hội, nợ cộng đồng, nợ đất nước,… tất nhiên có cả nợ tôn giáo, đặc biệt nhất là nợ Thiên Chúa. Món nợ bình thường mà quan trọng là “nợ sự sống”. Khi hít thở không khí, ai cũng mắc nợ Thiên Chúa – vì Ngài chính là Sự Sống (Ga 14:6) hoặc Nguồn Sống (Tv 36:10), là ĐẤNG CẦM QUYỀN SINH TỬ (Đnl 32:39; 1 Sm 2:6; Kn 16:13). Thật vậy, chúng ta sống hay chết là quyền của Ngài: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này” (Tv 104:29-30).
Xuân sang thì Tết đến. Đó là dấu chỉ cho chúng ta biết rằng, dù muốn hay không, thời gian năm cũ cũng đã thực sự qua đi, và thời gian năm mới vừa khởi đầu. Đó là quy luật tự nhiên bất biết muôn thuở, vì cái gì cũng có hai “điểm” – khởi sự và kết thúc. Cả hai “điểm” đó đều là Chúa: “Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu và Cuối, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (Kh 22:13).
Mồng Một Tết là ngày cầu bình an cho năm mới. Khởi đầu cuộc đời, khởi đầu công việc, khởi đầu hôn nhân, khởi đầu sự nghiệp,… đặc biệt là khởi đầu năm mới. Tất cả những cái khởi đầu đều làm người ta cảm thấy lo – lo đủ thứ, đủ kiểu, đủ mức độ. Lẽ tất nhiên, vì chúng ta không thể chủ động, không biết tương lai ra sao. Thời gian là của Chúa. Vì vậy mà người ta cần và phải tín thác vào Chúa. Đó là sống khôn ngoan!
Tại giáo xứ Thánh Gioan Chrysostom ở Inglewood (California, Hoa Kỳ) có một chiếc đồng hồ lớn. Trên chiếc đồng hồ đó có khắc chữ “Tempus Fugit” – theo La ngữ có nghĩa là “thời giờ trôi qua”. Thật là chí lý! Tương tự, người Việt chúng ta cũng nói: “Thời giờ thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ đợi ai”. Và hôm nay, mồng Một Tết, Thiên Chúa động viên mỗi chúng ta: “ĐỪNG LO!” (Mt 6:34).
Mùa Xuân chỉ là một phần của thời gian. Xuân đến rồi Xuân lại đi. Tác giả Thánh Vịnh xác định: “Chính Ngài vạch biên cương cho cõi đất, thời hạ, tiết đông, cũng chính Ngài thiết lập” (Tv 74:17).
Sau mùa Đông giá lạnh là mùa Xuân ấm áp, mọi vật đều biến đổi, khác lạ, y như được hồi sinh từ cõi chết vậy. Lạ lắm, đúng như sách Diễm Ca (2:11-12) mô tả, đơn giản mà tinh tế và khéo léo:
Tiết Đông giá lạnh đã qua
Mùa mưa đã dứt, đã xa lắm rồi
Sơn hà nở rộ hoa tươi
Và mùa ca hát vang trời về đây
Tiếng chim gáy hót mê say
Văng vẳng cả ngày trên khắp đồng quê
Mùa Xuân là mùa khởi đầu một năm mới, cái vẻ “mới lạ” của mùa Xuân khiến chúng ta nhớ tới việc sáng tạo của Thiên Chúa từ thuở hồng hoang. Khoảng thời gian đó được Kinh Thánh cụ thể hóa là sáu ngày, và thêm một ngày nghỉ nữa là thành một tuần.
Ngày thứ tư trong công trình khai thiên lập địa, Thiên Chúa phán: “Phải có những vầng sáng trên vòm trời, để phân rẽ ngày với đêm, để làm dấu chỉ xác định các đại lễ, ngày và năm. Đó sẽ là những vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất” (St 1:14-15). Tức thì đã xảy ra y như vậy.
Chi tiết hơn, Kinh Thánh cho biết: “Thiên Chúa làm ra hai vầng sáng lớn: vầng sáng lớn hơn để điều khiển ngày, vầng sáng nhỏ hơn để điều khiển đêm; Người cũng làm ra các ngôi sao. Thiên Chúa đặt các vầng sáng trên vòm trời để chiếu soi mặt đất, để điều khiển ngày và đêm, và để phân rẽ ánh sáng với bóng tối. Thiên Chúa thấy thế là tốt đẹp” (St 1:16-18). Ngày để làm việc, đêm để nghỉ ngơi. Thiên Chúa đã tạo cơ hội thuận lợi để chúng ta có thể cân bằng cuộc sống, nhờ đó mà làm việc có hiệu quả cao nhất. Quả thật, chúng ta rất cần phải biết tạ ơn Chúa Tể càn khôn, đặc biệt là ngay từ giây phút đầu năm như thế này.
Chắc chắn ai cũng biết rằng cuộc sống luôn có những nỗi lo, không nhiều thì ít, không to thì nhỏ, chẳng ai có thể vô tư. Ngay cả người điên cũng có nỗi lo riêng của họ, thậm chí người sống thực vật cũng lo – vì họ não và tim của họ vẫn hoạt động, tức là vẫn sống. Thật vậy, cứ mở mắt ra là thấy lo rồi. Tuy nhiên, lo là lẽ thường tình của nhân sinh, nhưng đừng lo quá, vì chúng ta “không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen” (Mt 5:36). Việc nhỏ như vậy còn chưa làm nổi kia mà!
Vì thế, Kinh Thánh nhắc nhở chúng ta cố “thoát” ra khỏi cái “vỏ ốc yếu đuối” của mình: “Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng. Hãy ký thác đường đời cho Chúa, chính Người sẽ ra tay” (Tv 37:4-5).
Không chỉ có như vậy, Thiên Chúa còn làm cho chúng ta hơn thế nữa: “Chính nghĩa bạn, Chúa sẽ làm rực rỡ tựa bình minh, công lý bạn, Người sẽ cho huy hoàng như chính ngọ” (Tv 37:6). Tuy nhiên, chúng ta phải chú ý đến “chính nghĩa” (lẽ phải, sự thật) và “công lý” (công minh, chính trực). Tức là chúng ta phải nghiêm túc, rạch ròi, thẳng thắn, chứ đừng “bẻ cong” hoặc “bóp méo”. Động thái xem chừng đơn giản nhưng không dễ đâu đấy, thế nên phải can đảm mới khả dĩ thực hiện.
Tác giả Thánh Vịnh chân thành dẫn chứng: “Chúa giúp con người bước đi vững chãi, ưa chuộng đường lối họ dõi theo. Dầu họ có vấp cũng không ngã gục, bởi vì đã có Chúa cầm tay. Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay, dòng giống mai sau hưởng phúc lành”(Tv 37:23-26). Mấy câu này làm sáng tỏ mấy câu trên. Rất lô-gích!
Sống tốt thì người ta an tâm, hy vọng làm người ta vui sống, và càng an tâm hơn nếu người ta biết phó thác tất cả cho Chúa. Thánh Phaolô kêu gọi: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em! Sao cho mọi người thấy anh em sống hiền hoà rộng rãi, Chúa đã gần đến. Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4:4-6). Sống tín thác cũng là sống theo “con đường thơ ấu” của Thánh Hoa Hồng Nhỏ Têrêsa Hài Đồng.
Đây là hệ quả tất yếu dành cho những ai sống tín thác: “Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Pl 4:7). Thánh Phaolô nhắn nhủ thêm về các đức tính cần thiết để sống tốt lành và đạo đức: “Ngoài ra, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4:8).
Chính xác và rõ ràng nhất là lời khuyên của Đại sư Giêsu: “ĐỪNG LO cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao?” (Mt 6:25). Một câu nghi-vấn-xác-định thật độc chiêu quá chừng!
Chúa Giêsu biết chúng ta yếu đuối, chưa đủ tin, nên Ngài phải “dài hơi” giải thích và đưa ra các chứng cớ minh nhiên: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy” (Mt 6:26-29). Chúng ta có thực sự tâm phục khẩu phục hay còn ngờ vực?
Và rồi Ngài nhấn mạnh: “Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6:30-33). Với sức con người thì khó lắm, nhưng với niềm tín thác, chúng ta sẽ làm được nhờ Đức Giêsu Kitô.
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa động viên vừa khuyến cáo khi Ngài xác định: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Và tác giả Thánh Vịnh nhắn nhủ: “Hãy trút nhẹ GÁNH LO vào tay Chúa, Người sẽ đỡ đần cho” (Tv 55:23).
Ngay giây phút đầu tiên của mùa Xuân, chính thức khởi đầu ngày Tết, khi hòa chung niềm vui mừng của muôn loài và cùng nhau ăn Tết, mỗi người chúng ta hãy ghi nhớ và chân thành thề hứa với Chúa: “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” (Tv 145:2).
Cuộc sống không thể không lo, Thiên Chúa cũng không bảo chúng ta “vô lo”, mà có lo cũng chẳng được, nhưng Ngài muốn chúng ta thành tâm tín thác vào Ngài. Và đó cũng là lời khuyên chân thành của tác giả Thánh Vịnh: “Hãy ký thác đường đời cho Chúa, tin tưởng vào Người, Người sẽ ra tay” (Tv 37:5).
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Xuân vĩnh hằng, chúng con tin kính và yêu mến Ngài, xin giúp chúng con thể hiện niềm tin yêu đó qua việc yêu thương tha nhân, không phân biệt ai, hôm nay và mãi mãi. Đó là Tình Xuân của chúng con, và chúng con muốn chia sẻ với tha nhân, nhất là những người chưa có thể tận hưởng ngày Xuân trọn vẹn vì lý do nào đó – tội nhân, bệnh tật, mồ côi, ưu sầu, chia ly, tù đày, nghèo khổ, bị ruồng bỏ, bị phản bội,… Chúng con xin phó thác năm mới và tương lai của chúng con cho Ngài, xin Ngài ban an bình cho mọi người. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa làm người và cứu độ chúng con. Amen.
ÂN NGHĨA
(Mồng Hai Tết – cầu cho Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ)
NGÀY MỒNG HAI CẦU NGUYỆN CHO NHÂN THẾ
NGUYỆN THIÊN CHÚA XÓT THƯƠNG CẢ TỔ TIÊN
Có lẽ chẳng ai lại không biết câu ca dao này: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra; Một lòng thờ mẹ, kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Câu ca dao bình dị mà thâm thúy với cách so sánh cụ thể. Ân nghĩa là món nợ về lòng hiếu thảo mà cả đời chúng ta cũng không thể nào trả được, nhưng đó là thứ cần mắc nợ nhau suốt đời: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13:8).
Chắc chắn ai cũng có một gia đình, dù là “ông kia, bà nọ” thì cũng vẫn xuất thân từ một gia đình – dù gia đình giàu hay nghèo, to hay nhỏ. Có điều tất yếu là người ta có thể tự chọn nhiều thứ, nhưng không ai có thể tự chọn cha mẹ – tất nhiên kể cả ông bà, tổ tiên. Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà người ta gọi gia đình là Tổ Ấm hoặc Mái Ấm. Dấu hiệu đầu tiên của hạnh phúc gia đình là tình yêu gia đình, chính “ngọn lửa” tình yêu làm cho gia đình ấm áp.
Dù là Thiên Chúa, nhưng khi Đức Giêsu giáng sinh làm người, Ngài cũng sinh trưởng trong một gia đình. Điều đó chứng tỏ gia đình rất quan trọng. Hai tiếng “gia đình” đơn giản lắm, nhưng cũng phức tạp lắm. Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) nhận xét: “Khả năng tìm được cái đẹp trong những điều nhỏ bé nhất khiến gia đình trở nên hạnh phúc và cuộc đời trở nên đáng yêu” (The power of finding beauty in the humblest things makes home happy and life lovely). Thomas Fuller (1608-1661, Anh quốc) đề nghị: “Lòng nhân đức bắt đầu từ gia đình nhưng không nên kết thúc ở đó” (Charity begins at home but should not end there). Bộ ba Cha-Mẹ-Con là chiếc kiềng ba chân yêu thương để chống đỡ gia đình: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng” (Ca dao).
Ngày lễ, tết, và những dịp đặc biệt, nhớ tới công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và tiền nhân là điều cần thiết. Trên đời này, không có công ơn nào to lớn bằng công ơn cha mẹ, đặc biệt là người mẹ. Chữ Hiếu (mệnh danh là Đạo Hiếu) không thể nào bù đắp chín Đức Cù Lao (*). Cứ tính đơn giản theo nghĩa đen thì cũng thấy không cân xứng: Một chữ không thể so với chín chữ. Con cái chỉ có một chữ mà vẫn không giữ trọn!
Kinh Thi có đề cập đức cù lao của cha mẹ: “Cù lao vu dã” – nhọc nhằn vất vả nơi đồng nội; và “bi ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” – thương thay cha mẹ nhọc nhằn sinh ta.
Dịp đầu Xuân, thời gian đẹp nhất trong năm – cả nghĩa đen và nghĩa bóng, sách Huấn Ca mời gọi: “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông của chúng ta qua các thế hệ” (Hc 44:1). Tại sao? Lý do minh nhiên: “Họ là những người đạo hạnh, công đức của các ngài không chìm vào quên lãng. Dòng dõi các ngài luôn được hưởng một gia tài quý báu đó là lũ cháu đàn con. Dòng dõi các ngài giữ vững các điều giao ước; nhờ các ngài, con cháu cũng một mực trung thành. Dòng dõi các ngài sẽ muôn đời tồn tại, vinh quang các ngài sẽ chẳng phai mờ. Các ngài được mồ yên mả đẹp và danh thơm mãi lưu truyền hậu thế. Dân dân sẽ kể lại đức khôn ngoan của các ngài và cộng đoàn vang tiếng ngợi khen” (Hc 44:10-15).
Chúa Giêsu đã nêu gương về đạo Hiếu để chúng ta noi theo. Sau ba ngày lo việc của Chúa Cha, Cậu Hai Giêsu ở lại Đền Thờ khiến Cô Maria và Chú Giuse lo sốt vó, tìm kiếm xuôi ngược suốt ba ngày. Khi gặp cha mẹ, Cậu Hai Giêsu mau mắn “đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2:51).
Ai cũng có cha mẹ, dù cha mẹ có thế nào thì cũng vẫn là người sinh thành dưỡng dục mình. Ai sống có hiếu thì được Chúa chúc lành: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may” (Tv 128:1-2).
Con cái có hiếu thì cha mẹ an tâm, gia đình hạnh phúc: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người” (Tv 128:3-4). Chắc hẳn ai cũng mong ước như vậy, vấn đề là phải thể hiện cụ thể, đừng nói suông. Tác giả Thánh Vịnh cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu” (Tv 128:5-6). Nguyện chúc mọi gia đình vui hưởng thái bình như Thánh Gia – hôm nay và mãi mãi, đặc biệt trong những ngày Xuân đoàn tụ này.
Thánh Phaolô nhắc nhở những người con về Đạo Hiếu: “Kẻ làm con, hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa: để ngươi được hạnh phúc và hưởng thọ trên mặt đất này” (Ep 6:1-3). Và nhắc nhở những người làm cha mẹ: “Những bậc làm cha mẹ, đừng làm cho con cái tức giận, nhưng hãy giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy” (Ep 6:4). Bổn phận và trách nhiệm với nhau là điều cần thiết: Con cái đối với cha mẹ, và cha mẹ đối với con cái.
Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì là hành động. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi. Để được như vậy, anh em hãy chuyên cần tỉnh thức và cầu xin cho toàn thể dân thánh” (Ep 6:18-19). Cầu nguyện là việc làm phải liên tục, bất kể thời gian hoặc địa điểm. Thật vậy, cầu nguyện có thể thực hiện ngay tại bàn tiệc, khi đang nói chuyện với người khác, khi chạy xe,… thậm chí ngay khi chúng ta ở giữa một đám đông ồn ào náo nhiệt. Đừng chỉ cầu nguyện khi vào nhà thờ hoặc ở nơi tĩnh lặng, vì cầu nguyện rất dễ: Hướng tâm hồn lên với Chúa, gặp Chúa, có khi không cần nói gì cả. Cầu nguyện liên lỉ là “thói quen” của người sống tâm linh theo tinh thần của Đức Kitô.
Người cha, người mẹ và người con đều sống tâm linh như vậy thì chắc chắn gia đình hạnh phúc, là Tổ Ấm thực sự, ấm trong tình yêu của Thiên Chúa, nóng hổi ngọn lửa thương xót của Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay, người kính sợ Chúa, những ưa cùng thích mệnh lệnh Chúa truyền ban. Trên mặt đất, con cháu của họ sẽ hùng cường, dòng dõi kẻ ngay lành được Chúa thương giáng phúc” (Tv 112:1-2). Niềm hạnh phúc thánh đức thật tuyệt vời!
Thiên Chúa phù trì liên vạn đại
Thánh Gia bảo giám mãi thiên thu
Nước có quốc pháp, nhà có gia phong. Truyền thống là điều nên duy trì – nếu đó là truyền thống tốt đẹp và hợp lòng người. Đừng bao giờ câu nệ!
Trình thuật Mt 15:1-6 cho biết: Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và hỏi Ngài: “Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?”. Ngài trả lời bằng một câu hỏi: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa?”. Ngài biết chẳng ai trả lời được nên Ngài lý luận: “Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ cha kính mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế, các ông dựa vào truyền thống của các ông mà huỷ bỏ lời Thiên Chúa”. Họ chỉ có nước “ngậm tăm”, im như thóc thối, câm như hến.
Có khi chúng ta cũng như bọn Pharisêu đấy, đầu toàn là “đậu hũ” mà bày đặt lý luận để bắt bẻ người khác. Dốt mà chảnh là thế đấy! Không chỉ vậy, chúng ta lấy lý do “vì, bởi, tại,…” mà biện hộ cho mình. Thật nguy hiểm! Thiết tưởng đôi khi chúng ta phải tự xét lại về các động thái của mình, đừng tưởng những gì chúng ta đưa ra đều là vì Chúa, có thể chính chúng ta “chơi ép” Chúa, “điều khiển” Chúa, rồi lại tự tôn bằng các biện hộ đó là Ý Chúa. Ôi, lạy Thiên Chúa!
Ngày Xuân, dịp Tết, nếu còn cha mẹ, thật hạnh phúc cho bạn, nhưng hãy “động não” một chút: Khi bạn đang uống ly nước giải khát, hãy nghĩ xem cha mẹ thường uống gì. Khi bạn mặc những bộ quần áo đắt tiền hàng hiệu, xin hãy nghĩ xem cha mẹ bạn thường mặc ra sao. Khi bạn thoải mái chi tiêu, hãy nghĩ đến những thứ cha mẹ bạn thường dùng thế nào. Cha mẹ đã vì chúng ta mà bỏ bao công sức, đổ bao hạt mồ hôi, đều chỉ vì mong cho bạn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Những thứ bạn đang dùng đều là do công sức cha mẹ tạo ra. Xin hãy yêu quý cha mẹ và cố gắng giữ trọn chữ hiếu cho xứng đáng là người con. Hãy hành động ngay khi cha mẹ còn sống, cụ thể là ngay trong dịp Tết này, biết đâu bạn không còn kịp nữa đâu!
Tết đến bình an nhờ Thiên Chúa
Xuân về hạnh phúc với Thánh Gia
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban cho chúng con có ông bà, cha mẹ, xin thương chúc lành cho họ; xin giúp chúng con biết giữ trọn Ân Nghĩa với Chúa và với ông bà, cha mẹ của chúng con. Xin tình yêu Thánh Gia luôn tràn đầy trong mọi gia đình. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
CÔNG LAO
(Mồng 3 Tết – Thánh Hóa Công Việc)
NGÀY MỒNG BA XIN THÁNH HÓA CÔNG VIỆC
THUỞ THẾ TỤC ƯỚC HÀI HÒA THÁNG NĂM
Công lao là gì? Theo Việt Nam Tự Điển (tác giả Thanh Nghị, quyển I, in lần thứ nhứt, nhà xuất bản Thời-Thế Saigon, trang 195), công lao là “công khó nhọc” – với chú thích Pháp ngữ: travail, peine; mêrite.
Đó là sức lực của chính mình để làm một việc gì đó – công việc tay chân hoặc trí óc, vớ nỗ lực của chính mình, lương thiện chứ không lừa bịp hoặc cướp công của người khác. Có thể nói rằng mọi thứ tốt hay xấu là do chính chúng ta, tức là “cái tôi” (ego).
Thật vậy, sau khi để cho “cái tôi” nổi dậy, Ông Bà Nguyên Tổ đã bất tuân phục Thiên Chúa vì nghe lời đường mật của ma quỷ. Họ xấu hổ nên tránh mặt Đức Chúa. Và rồi Ngài ra nghiêm luật, đồng thời cũnh nhắc nhở về “thân phận” của họ: “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3:19).
Kể từ đó, con người không còn được “ngồi mát ăn bát vàng” nữa, mà phải làm lụng vất vả, đổ mồ hôi trán, dán mồ hôi lưng mới có miếng ăn, đôi khi cũng chẳng đủ ăn. Tuy nhiên, cái khổ xổ cái khôn, nhờ đó mà con người có kinh nghiệm lao động, biết quý trọng công sức, và dần dần người ta có những luật lao động khác nhau – tùy hoàn cảnh cụ thể. Cái khó ló cái khôn là thế!
Đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) triết lý về sự lao động: “Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghĩ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng tạo”. Còn nữ tiểu thuyết gia Louisa May Alcott (1832-1888, Hoa Kỳ) xác định: “Công việc luôn là sự cứu rỗi của tôi, và tôi tạ ơn Chúa về điều đó”. Tuyệt vời quá! Quả thật, làm hay hơn nói giỏi – well done is better than well said (Benjamin Franklin, 1706-1790, Tổng Thống Hoa Kỳ).
Mồng ba Tết, ngày thánh hóa công ăn việc làm, trình thuật St 2:4-9 cho chúng ta biết gốc tích trời đất khi được sáng tạo. Khởi đầu từ Vườn Địa Đàng, nơi hạnh phúc chan chứa, nhưng có lẽ vì sướng quá hóa rồ nên con người tự làm khổ mình, để rồi lận đận vì thử thách suốt đời.
Kinh Thánh cho biết: “Ngày Đức Chúa là Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây ngoài đồng nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ ngoài đồng nào mọc lên, vì Đức Chúa là Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất”. Hoang vu. Không có sinh vật nào. Vì thế, chúng ta gọi đó là “thuở hồng hoang”.
Sau đó, “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật. Rồi Đức Chúa là Thiên Chúa trồng một vườn cây ở Ê-đen, về phía đông, và đặt vào đó con người do chính mình nặn ra. Đức Chúa là Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trông thì đẹp, ăn thì ngon, với cây trường sinh ở giữa vườn, và cây cho biết điều thiện điều ác”. Chính vì cây-thiện-và-ác này mà con người nên nông nỗi! Không phải Thiên Chúa “gài độ” để con người “sập bẫy”, rơi vào “hố tội lỗi”, mà chỉ vì con người kiêu ngạo, muốn bằng Thiên Chúa.
Sách Sáng Thế cho biết: “Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen để cày cấy và canh giữ đất đai” (St 2:15). Từ đó, con người được làm chủ mọi loài khác, nghĩa là bắt đầu có quyền sở hữu. Trong cái rủi vẫn có cái may. Vì thế mà Giáo Hội gọi Tội Tổ Tông là “Tội Hồng Phúc” (Exultet, công bố Tin Mừng Phục Sinh). Kể cũng lạ, “tội” mà lại là “hồng phúc”.
Trí óc phàm nhân chúng ta không đủ mức hiểu thấu, chỉ còn biết cảm tạ và cầu xin Thiên Chúa xót thương. Với tâm tình đó, tác giả Thánh Vịnh tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1).
Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Ngài tạo dựng mọi sự. Chính việc tạo dựng đó là công sức lao động của Ngài. Thật vậy, Ngài lao động sáu ngày và chỉ nghỉ một ngày (x. St 1:3 – 2:3). Điều đó cho thấy sự lao động là cần thiết, như người ta nói: “Nhàn cư vi bất thiện”. Rảnh rỗi quá hóa hư thân, mất nết.
Thánh Vịnh cho biết: “Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ” (Tv 104:14-15). Có ngày thì cũng có đêm. Ngày làm việc, đêm ngủ nghỉ. Ai “ngủ ngày, cày đêm” là người “không bình thường” rồi, có thể “có vấn đề”. Quy luật “tự nhiên” là vậy: “Đêm trở lại khi Chúa buông màn tối, chốn rừng sâu, muông thú tung hoành. Tiếng sư tử gầm lên vang dội, chúng săn mồi, gào xin Chúa cho ăn. Ánh dương lên, chúng bảo nhau về, tìm hang hốc, chui vào nằm nghỉ. Đến lượt con người ra đi làm lụng, những mải mê tới lúc chiều tà” (Tv 104:20-23).
Cái mà người ta gọi là “luật tự nhiên” chính là Thiên Luật, là quy luật của Thiên Chúa, chứ chẳng có gì gọi là tự nhiên hoặc ngẫu nhiên. Nhìn ngắm thiên nhiên, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất” (Tv 104:24).
Tay làm, hàm nhai; tay quai, miệng trễ. Tất nhiên rồi. Nhỏ thì nhờ cha mẹ, lớn thì phải tự mưu sinh. Lao động để có thể sinh tồn, nhưng đó là duy trì sự sống thể lý. Con người có hai phần, xác và hồn, cần duy trì sự sống thể lý và cũng đừng quên duy trì sự sống tinh thần, với người có niềm tin tôn giáo thì đó là sự sống tâm linh. Chúa Giêsu đã minh định rạch ròi: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4:4; Lc 4:4).
Vấn đề mưu sinh thật vất vả, không hề đơn giản – trừ một số người “đẻ bọc điều”, sướng từ trong trứng nước. Lo thì lo, nhưng lo cũng chẳng thay đổi được theo ý mình. Thánh Phaolô cho biết: “Giờ đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những người đã được thánh hiến. Vàng bạc hay quần áo của bất cứ ai, tôi đã chẳng ham. Chính anh em biết rõ: những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, đôi tay này đã tự cung cấp. Tôi luôn tỏ cho anh em thấy rằng phải giúp đỡ những người đau yếu bằng cách làm lụng vất vả như thế, và phải nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: CHO thì có phúc hơn là NHẬN” (Cv 20:32-35). Muốn CHO thì phải CÓ, muốn CÓ thì phải LÀM. Rất lô-gích. Chắc chắn Thiên Chúa muốn chúng ta lao động hết SỨC (lực) để đáng CÔNG (trạng).
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Mình muốn không bằng trời muốn. Người vô thần bị “đuối lý” ở điểm này. Họ bảo không có Tạo Hóa mà vẫn kêu trời khi gặp “sự cố”. Mâu thuẫn! Còn với các Kitô hữu, không gì hơn là tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy thì sinh nhiều hoa trái” (Ga 15:4-5). Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được ráo trọi (x. Ga 15:5). Vậy thì dại gì mà không tín thác? Tín thác là trao phó trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa, hoàn toàn để Ngài quan phòng và định liệu theo đúng Ý Ngài.
Trình thuật Mt 25:14-30 là dụ ngôn “Những Yến Bạc” (tương tự Lc 19:12-27), nói về Công Sức của mỗi người trong quá trình lao động cả đời.
Khi ông chủ sắp đi xa, ông liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ.
Sau một thời gian lâu dài, ông chủ trở về tính sổ và thanh toán với họ. Người đã lãnh năm yến đưa năm yến khác. Ông chủ khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành, được giao ít mà anh đã trung thành thì ông hứa sẽ giao nhiều hơn. Người đã lãnh hai yến cũng đưa hai yến khác. Ông chủ cũng khen là đầy tớ tài giỏi và trung thành và hứa sẽ giao thêm.
Cuối cùng, người đã lãnh một yến cũng tiến lại và nói: “Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!”. Ông chủ lắc đầu rồi giải thích: “Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có thì ngay cái đang có cũng sẽ bị lấy đi”.
Ai cũng có quỹ thời gian bằng nhau: 24 giờ/ngày. Không hơn hoặc kém một tích tắc nào. Vấn đề là chúng ta dùng khoảng thời gian đó làm gì. Chúa biết rõ ai như thế nào nên Ngài giao cho “phần việc” tương xứng. Vấn đề không phải là ít hay nhiều, giỏi hay dốt, tốt hay xấu, mà là chúng ta có nỗ lực hết sức để sinh lời hay không. Được nhiều thì PHẢI sinh lời nhiều, đừng tưởng được nhiều mà sung sướng, cứ ngồi rung đùi mà hưởng thụ. Nghĩ cho cùng, được giao nhiều mà lại thấy “nhột gáy” đấy. Đừng tưởng bở mà “chảnh”. Chẳng vậy mà người ta vẫn nói: “Ngu si hưởng thái bình”.
Đầu năm, đầu tháng, vui mừng đón Xuân, ăn Tết, nhưng đừng quên xem lại “phần việc” của mình để có thể kịp chấn chỉnh. Thật đáng sợ nếu phải nghe câu này của Chủ Nhân Giêsu khi Ngài trở lại tính sổ với chúng ta: “Tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng” (Mt 25:30).
Lạy Thiên Chúa, Đấng chí cao tự hạ, xin giúp chúng con biết nỗ lực hết sức với “phần việc” mà Ngài đã giao cho chúng con. Có thể chúng con không sinh lời gấp đôi, dù chúng con rất muốn, nhưng phần lời đó là do chính Ngài cho phép. Nhưng chúng con hứa sẽ cố gắng làm để sinh lời hết khả năng của chúng con, bắt đầu từ hôm nay, từ mùa Xuân này. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
TRẦM THIÊN THU
(*) Cù Lao là siêng năng, cần mẫn, nhọc nhằn. Chín đức cù lao gồm: [1] SINH: Cha mẹ đẻ ra, [2] CÚC: Nâng đỡ, [3] PHỦ: Vỗ về, vuốt ve, [4] SÚC: Cho ăn, bú mớm; [5] TRƯỞNG: Nuôi dưỡng thể xác; [6] DỤC: Giáo dưỡng tinh thần; [7] CỐ: Trông nom, nhìn ngắm; [8] PHỤC: Quấn quít, săn sóc không ngơi; [9] PHÚC: Bồng ẵm, gìn giữ, lo cho con đầy đủ, bảo vệ con khỏi bị ăn hiếp.