Không còn hy vọng vì không còn niềm tin. Hết niềm tin thì bất cần, bất chấp, xả láng. Ba đức đối thần – Tin, Cậy, Mến – như chiếc kiềng 3 chân vững vàng, giúp cân bằng cuộc sống. Ngụ ngôn kể rằng…
Trong căn phòng, không gian tĩnh lặng tới mức có thể nghe thấy tiếng thì thầm của những ngọn nến. Cây nến thứ nhất than vãn: “Tôi là biểu tượng của BÌNH AN và HOÀ THUẬN. Thế nhưng thời nay, những cái đó thật chênh vênh, chông chênh. Thế giới hiếm khi không có gươm đao, súng đạn, tranh chấp, cãi cọ,… giữa người với người – thậm chí vợ chồng hoặc anh em trong một nhà.” Ngọn lửa leo lét, mờ dần, mờ dần,… cho tới khi hoàn toàn lụi tắt!
Ngọn nến thứ hai lắc đầu kể lể: “Tôi là NIỀM TIN. Thế nhưng trong thế giới này hình như tôi trở nên thừa thãi, như một thứ xa xỉ. Biết bao kẻ sống xu thời, không cần niềm tin.” Ngọn lửa tắt dần, chỉ còn làn khói luyến tiếc!
Ngọn nến thứ ba than phiền: “Tôi là TÌNH YÊU, nhưng tôi không còn đủ sức tỏa sáng. Người ta gạt tôi ra một bên, không thèm hiểu giá trị của tôi. Cứ nhìn thế giới mà xem, không thiếu những kẻ quên luôn cả tình yêu đối với chính những người ruột thịt của mình.” Ngọn lửa vụt tắt lịm!
Cả căn phòng tối tăm. Nhưng còn một ngọn nến nằm ở góc xa vẫn tiếp tục phát ra ánh sáng, như ngôi sao đơn độc giữa đêm tối âm u. Bất chợt, một cô bé bước vào phòng. Thấy ba ngọn nến đã tắt, cô bé thốt lên: “Tại sao các bạn không cháy nữa? Cuộc sống này luôn cần các bạn. Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu phải luôn tỏa sáng!”
Cây nến thứ tư vẫn lặng lẽ cháy trong góc phòng khe khẽ nói: “Đừng lo! Tôi là HY VỌNG. Nếu tôi còn cháy, mặc dù ngọn lửa rất mong manh, nhưng vẫn có thể thắp sáng lại Hòa Bình, Niềm Tin và Tình Yêu.” Mắt cô bé sáng lên. Cô dùng cây nến Hy Vọng để thắp sáng lại các cây nến khác. Và rồi căn phòng lại đầy ánh sáng…
Hy Vọng rất quan trọng. Đức cậy luôn cần thiết. Nếu trái tim luôn cháy lên “ngọn lửa hy vọng,” dù chỉ leo lét và âm ỉ, chúng ta sẽ tìm lại được những điều tốt đẹp khác cho cuộc sống: Tình Yêu, Niềm Tin và Bình An. Một danh nhân đã nói: “Thà thắp lên một ngọn lửa, còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.” Ngọn lửa đó là Niềm Hy Vọng.
Thiên nhiên tứ thới bát tiết, luân phiên bốn mùa. Đời sống tâm linh cũng tương tự. Và Mùa Vọng lại về, khởi đầu Tân Niên Phụng Vụ. Chẳng rực rỡ sắc màu như Mùa Xuân, không nhộn nhịp như Tết Nguyên Đán, nhưng Tân Niên Phụng Vụ mang vẻ lạ lùng lắm: lặng lẽ và thâm trầm trong sắc tím, nhưng không ảm đạm u sầu. Sắc tím biểu hiện sự chung thủy và hy vọng trong sự mong chờ Con Thiên Chúa đến cứu độ nhân gian, giải thoát khỏi mọi đau khổ, bất công, áp bức, bóc lột,… nhất là cứu chúng ta thoát khỏi ma quỷ, tội lỗi.
Mùa Vọng năm nay đặc biệt hơn, vì vẻ trầm lặng bao trùm khắp nơi do ảnh hưởng Cúm Tàu. Bị phong tỏa, cách ly nên chúng ta càng khao khát Đấng Cứu Thế: “Lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến!” (Kh 22:20) Hy vọng và mong chờ Ngài, chúng ta vững tâm tín thác và cùng với ngôn sứ Isaia tha thiết van nài: “Trời cao hỡi, nào hãy gieo sương, mây hãy đổ mưa, mưa đức công chính; đất mở ra đi cho nẩy mầm ơn cứu độ, đồng thời chính trực sẽ vươn lên.” (Is 45:8)
Niềm hy vọng luôn cần thiết. Triết gia Jean Jacque Rousseau (1712-1778) tâm sự: “Tôi đã đau khổ quá nhiều ở thế giới này để hy vọng một thế giới khác.” Còn sử gia Thomas Fuller (1608-1661) đặt vấn đề: “Nếu không nhờ có hy vọng, trái tim sẽ tan vỡ.” Trong cuộc sống đời thường và tâm linh đều không thể thiếu niềm hy vọng.
Có hy vọng nhờ tin tưởng, vì tin tưởng mà hy vọng, kiên tâm mong chờ, hướng tới tương lai. Khi mong chờ thì phải tỉnh thức, nếu mong chờ mà không tỉnh thức thì chỉ là khờ dại. (x. Mt 25:1-13) Mùa Vọng nhắc nhở tỉnh thức, “dầu, đèn” luôn sẵn sàng để có thể đón Con Thiên Chúa ngự đến – cũng hàm ý sự chết của mỗi chúng ta.
Là Kitô hữu, nói cho rõ là tín nhân Công giáo, chúng ta luôn sống trong hy vọng và mong chờ Đức Giêsu Kitô. Thật vậy, cả cuộc đời Kitô hữu là Mùa Vọng liên lỉ và kéo dài, từ khi sinh ra cho đến lúc từ biệt cõi trần này. Thật vậy, Chúa Cha đã hứa ban Con Một, và Người Con đã đến. Trước khi về trời, Chúa Giêsu lại hứa sẽ đến đón chúng ta, để Ngài ở đâu thì chúng ta cũng sẽ ở đó với Ngài. (x. Ga 14:3)
Chúa Giêsu đã hứa gì thì chắc chắn nên trọn – gọi là ứng nghiệm. Kinh Thánh Cựu Ước nói về “định chế cho tương lai” qua sấm ngôn của Đức Chúa: “Này, sẽ đến những ngày Ta sẽ thực hiện điều tốt lành Ta đã phán về nhà Israel và về Giuđa.” (Gr 33:14) Về ngày đó, ngôn sứ Giêrêmia cho biết: “Trong những ngày ấy, vào thời đó, Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavít; Người sẽ TRỊ NƯỚC THEO LẼ CÔNG BÌNH CHÍNH TRỰC. Trong những ngày ấy, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ AN CƯ LẠC NGHIỆP. Đây là tên người ta sẽ đặt cho thành: Đức Chúa là sự-công-chính-của-chúng-ta!” (Gr 33:15-16) Thiên Chúa là Nguồn Chân Lý và Công Lý, tất nhiên Ngài toàn thiện, và cũng CHỈ MỘT MÌNH NGÀI NHÂN LÀNH. (Mc 10:18; Lc 18:19)
Thánh Vịnh gia tuyên xưng: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. XIN DẪN CON ĐI THEO ĐƯỜNG CHÂN LÝ CỦA NGÀI và BẢO BAN DẠY DỖ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5) Đó cũng là ý nguyện mà mỗi chúng ta đều phải cầu xin luôn suốt kiếp lữ hành này.
Tín nhân chúng ta khao khát và mong đợi chính Ngôi Hai Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất. Ngài mệnh danh là Đấng Emmanuel, Đấng Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. (Lc 1:23) Ngài đến không chỉ nêu gương khiêm nhường mà còn hướng dẫn và giáo huấn chúng ta biết cách đến với Chúa Cha, biết đường về trời để không bị lạc: “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người. Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa.” (Tv 25:8-10)
Chúa Cha là Đấng Nhân Lành Giàu Lòng Thương Xót, Chúa Giêsu cũng giống như Chúa Cha. Thánh Vịnh gia nói rõ: “Chúa xử thân tình với những ai kính sợ Chúa và cho họ biết giao ước của Người.” (Tv 25:14) Câu tục ngữ “cha nào, con nấy” cũng khả dĩ áp dụng cho đời sống tâm linh, nghĩa là chúng ta cũng có dòng máu thương xót như Chúa Cha và Chúa Con, tất nhiên chúng ta cũng phải yêu thương mà tha thứ lẫn nhau.
Chúa Giêsu cũng chỉ mong chúng ta biết sống như vậy mà thôi, vì yêu người là yêu Chúa, là giữ trọn lề luật. (Rm 13:8; Rm 13:10) Với tâm tình đó, Thánh Phaolô cầu chúc: “Xin Chúa cho TÌNH THƯƠNG của anh em ĐỐI VỚI NHAU và ĐỐI VỚI MỌI NGƯỜI ngày càng thêm đậm đà thắm thiết, cũng như tình thương của chúng tôi đối với anh em vậy. Như thế, Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, ĐƯỢC TRỞ NÊN THÁNH THIỆN, không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của Người.” (1 Tx 3:12-13)
Trong thời gian chờ đợi, Thánh Phaolô vừa nhắn nhủ vừa truyền lệnh: “Thưa anh em, anh em đã được chúng tôi dạy phải sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa, và anh em cũng đang sống như thế; vậy nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em HÃY TẤN TỚI NHIỀU HƠN NỮA. Hẳn anh em rõ chúng tôi đã lấy quyền Chúa Giêsu mà ra những chỉ thị nào cho anh em.” (1 Tx 4:1-2)
Mỗi Mùa Vọng là một dịp mong chờ Chúa Giêsu, kỷ niệm ngày Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng quan trọng hơn, Mùa Vọng là dịp nhắc nhở chúng ta mong chờ ngày Con Thiên Chúa tái lâm, cũng gọi là Ngày Cánh Chung, hoặc Tận Thế. Trong khi chờ đợi, người ta phải tích cực hành động cụ thể chứ không thể thụ động. Chuẩn bị càng tốt thì kết quả càng mãn nguyện, không chuẩn bị thì có hối cũng không kịp.
Về các điềm lạ trên trời và dưới đất ngay trước khi Con Người quang lâm, trình thuật Lc 21:25-28 (≈ Mt 24:29-31 và Mc 13:24-27) cho biết: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta SỢ ĐẾN HỒN XIÊU PHÁCH LẠC, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”
Chắc chắn cảnh tượng vô cùng khủng khiếp, chúng ta không thể tưởng tượng được. Cảnh tượng núi lửa, sóng thần, động đất, bão lụt, các vụ khủng bố – như vụ tòa tháp đôi WTC ở Hoa Kỳ ngày 11-9-2001 hoặc vụ khủng bố tại Pháp tháng 11-2015, dù có ghê rợn cỡ nào cũng không thể so với Ngày Tận Thế. Tất cả đều bất ngờ, không thể kịp phản ứng bất cứ động thái nào.
Vì thế, mọi người đều phải tỉnh thức và cầu nguyện như Chúa Giêsu khuyến cáo: “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo NGÀY ẤY NHƯ MỘT CHIẾC LƯỚI BẤT THẦN CHỤP XUỐNG ĐẦU ANH EM, vì Ngày Ấy sẽ ẬP XUỐNG TRÊN MỌI DÂN CƯ KHẮP MẶT ĐẤT. Vậy anh em HÃY TỈNH THỨC và CẦU NGUYỆN LUÔN, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và ĐỨNG VỮNG trước mặt Con Người.” (Lc 21:34-36)
Ngày Tận Thế vô cùng khủng khiếp đến nỗi người ta “hồn xiêu phách lạc.” Bất cứ ai lì lợm tới mức nào cũng phải rung động vì sợ hãi. Thánh Vịnh gia khẩn cầu: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Trong khi dịch Cúm Tàu chưa chịu dừng cơn bách hại, lời cầu đó càng cần thiết hơn trong thời gian này, đặc biệt là Mùa Vọng này.
Lạy Thiên Chúa, xin ban bình an đích thực cho chúng con, xin giúp chúng con tỉnh thức khi mong chờ Đấng Thiên Sai, biết chuẩn bị sẵn sàng, không ngừng cầu nguyện. Cuộc đời chúng con như đất hạn hán, xin Mưa Giêsu gội mát và tẩy rửa để mọi người biết sống nhân hậu, không lây nhiễm điều xấu cho tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
▶ Vọng Thiên Sai – https://youtu.be/m-joM_tyh1c