Home / Chia Sẻ / Lễ Mông Triệu – lễ vọng

Lễ Mông Triệu – lễ vọng

THIÊN HƯỚNG

Thiên HướngThiên hướng ở đây không có nghĩa bình thường là xu hướng hoặc khuynh hướng, mà có ý nghĩa “cao cấp” hơn, đó là “hướng về trời”.

Thánh Denis xác định: “Đức Mẹ là nơi nương náu của những người đã hòng hư mất, là hy vọng của những người không còn hy vọng”. Đó là niềm hy vọng tuyệt vời mà chúng ta được tận hưởng. Đức Maria là Thánh Mẫu Thiên Chúa, rất uy tín khi nguyện giúp cầu thay cho chúng ta. Chúng ta hy vọng để cố gắng thay đổi chứ đừng ỷ lại mà lợi dụng lòng thương xót của Thiên Chúa.

Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã hứa: “Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em thì Thầy lại đếnđem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi” (Ga 14:2-4). Lời hứa đó trở thành hiện thực, vì đã có những người được về trời.

Trong Cựu Ước, khi ông Êlia đang nói chuyện với ông Êlisa, bỗng có “một cỗ xe đỏ như lửa và những con ngựa đỏ như lửa tách hai người ra, và ông Êlia lên trời trong cơn gió lốc” (2 V 2:11). Trong Tân Ước, Dismas cả đời gian ác, coi trời bằng nắp bia và coi mọi người là rơm rác, cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu, nhưng nhờ sám hối chân thành, tướng cướp Dismas được Chúa Giêsu tha thứ và cho về trời ngay: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 22:43). Đặc biệt là Đức Mẹ được về trời qua một “giấc ngủ” (dormition), tức là Đức Mẹ “chết mà như ngủ”. Qua Thông điệp “Munificentissimus Deus” (Thiên Chúa Quảng đại), ĐGH Piô XII đã long trọng công bố tín điều Đức Maria lên trời cả hồn và xác – cũng gọi là mông triệu.

“Mông triệu” có gốc từ chữ Hán, được rút gọn từ câu “mông chủ (chúa) sủng triệu”, những từ ngữ thường được nghe trong các phim lịch sử của Trung Hoa. MÔNG là “chịu” hoặc “được”, TRIỆU là “gọi” (triệu tập, hiệu triệu). “Mông triệu” nghĩa là “được sủng ái” (yêu mến) nên được Chủ (Chúa) gọi (về trời).

Trước thời Hoàng đế Constantinope đã diễn ra một cuộc lễ trong nhà thờ trên núi Cây Dầu tại Giêrusalem vào ngày này, truyền thống gọi là lễ “Đức Mẹ An Giấc”.

Theo Lm Pohle và Lm Scheeben, mấy thế kỷ đầu không có dấu tích gì về lòng tin Đức Mẹ Maria lên trời. Nhưng một cái quách (sarcophagus) đầu thế kỷ IV ở nền nhà thờ Santa Engracia tại TP Saragossa (Tây Ban Nha) có bức chạm trổ hình Đức Mẹ lên trời. Chứng tích của Thánh Epiphanô cho biết người ta tin Đức Mẹ Maria bất tử và thân xác Mẹ vinh quang, niềm tin này đã được truyền bá sâu rộng trong một ít giáo đoàn như ở Antiokia. Do xác tín và ngợi khen “Chức Phẩm Thiên Mẫu” và “Đức Đồng Trinh” của Mẹ là hai căn nguyên. Thánh Epiphanô mở đường cho lòng tin và sự xác quyết của các Thánh Giáo phụ, các Giáo hoàng, các Giám mục, các nhà thần học và toàn thể Giáo hội.

Đức Alexanđrô III nói: “Mẹ Maria thụ thai không bị xấu hổ, sinh con không bị đau đớn, từ trần không bị hư hoại trong mồ, vì theo lời Thiên thần, Mẹ đã được đầy ơn”. Đức Piô XII nối tiếp các Đức tiền nhiệm về niềm tin đó. Trong Thông điệp “Corporis Mystici” (29-6-1943), ngài viết: “Chúng ta hãy nài xin Mẹ rất thánh của mọi phần tử của Chúa Kitô mà Ta đã tín thác hiến dâng loài người cho Trái tim Mẹ. Ngày nay ở trên trời, thân xác và linh hồn Mẹ toả sáng trong vinh quang, hiển trị cùng với Con của Mẹ”.

Ngày 1-5-1946, qua Thông điệp “Deiparae Virginis” (1-5-1946) gởi các giám mục khắp thế giới, ĐGH Piô XII cho biết rằng từ năm 1840 đến năm 1940, số đơn thỉnh nguyện xin Toà thánh định tín Mẹ Maria hồn xác lên trời đã đóng thành hai cuốn sách. Ngày 30-10-1950, Đức Thánh Cha gửi tông thư cho Cơ mật viện, loan báo vào ngày mồng 1-11-1950 là một biến cố quan trọng và là niềm vui lớn lao cho toàn thế giới Công giáo: Công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác lên trời. Đó là nhờ ơn soi sáng tác động của Chúa Thánh Thần và ơn trợ lực của Thiên Chúa.

Cuối cùng, ngày 1-11-1950, Thánh Ý Chúa thể hiện qua ĐGH Piô XII với Thông điệp “Munificentissimus Deus”, đại lược như sau: “Sau khi chúc tụng lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đã yêu thương quan phòng làm êm dịu những khổ đau, đem lại niềm an vui cho các dân tộc, Đức Thánh Cha nêu cao sự kiện ơn Chúa thương, dù giữa thời buổi nhiều người sai lạc chân lý và nhân đức, vẫn có nhiều cách biểu lộ đức tin, lòng sùng mến Mẹ Maria và những con cái Mẹ vẫn được khuyến khích chiêm niệm những đặc ân của Mẹ. Thật vậy, từ muôn đời, Thiên Chúa đã đặc biệt yêu thương Mẹ và rồi ban cho Mẹ dạt dào những đặc ân mà Giáo hội đã nhận biết và khám phá ra. Nhưng thời đại của chúng ta đã được dành riêng để chiêm ngưỡng đặc ân Đức Mẹ hồn xác lên trời.

Trình thuật 1 Sbn 15:3-5 cho biết: “Thời Cựu Ước, vua Đa-vít triệu tập toàn thể Ít-ra-en về Giêrusalem để rước Hòm Bia của Đức Chúa lên chỗ vua đã dọn sẵn. Vua cũng tập hợp con cháu ông A-ha-ron và các thầy Lê-vi: trong hàng con cháu ông Cơ-hát, có ông U-ri-ên chỉ huy, và các anh em của ông, tất cả là một trăm hai mươi người”. Hòm Bia “được làm bằng gỗ keo, dài một thước hai, rộng bảy tấc rưỡi và cao bảy tấc rưỡi, được bọc bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài, phía trên có một đường viền chung quanh bằng vàng” (Xh 25:10-11).

Hòm Bia là dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện, rất quan trọng. Khi khiêng Hòm Bia phải dùng đòn, đã xỏ đòn vào thì không được rút ra (Xh 25:15). Kinh Thánh cho biết thêm: “Con cháu Lê-vi mang Hòm Bia Thiên Chúa đúng như ông Mô-sê đã truyền theo lệnh của Đức Chúa, là dùng đòn mà khiêng trên vai. Vua Đa-vít truyền cho những người đứng đầu các thầy Lê-vi bố trí các ca viên, anh em của họ, để những người này dùng nhạc khí như đàn sắt, đàn cầm, não bạt mà tấu khúc hoan ca” (1 Sbn 15-16).

Tiếp theo, 1 Sbn 16:1-2 cho biết: “Người ta đưa Hòm Bia Thiên Chúa vào đặt giữa Lều vua Đa-vít đã dựng sẵn. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an trước nhan Thiên Chúa. Khi đã hoàn tất việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an, vua Đa-vít nhân danh Đức Chúa chúc phúc cho dân.

Người ta đặt Chứng Ước của Thiên Chúa vào Hòm Bia (Xh 25:16), do đó gọi là Hòm Bia Giao Ước. Thánh Vịnh cho biết: “Này đây, khi ở Ép-ra-tha, chúng tôi đã nghe nói đến hòm bia, chúng tôi tìm thấy hòm bia đó tại cánh đồng Gia-a. Nào ta tiến vào nơi Chúa ngự, phủ phục trước bệ rồng” (Tv 132:6-7). Chỉ nơi nào có Thiên Chúa thì mới là nơi vĩnh phúc đích thực, nơi mà ai cũng hướng tới với niềm khao khát cháy bỏng.

Tác giả Thánh Vịnh hy vọng chân thành: “Ước chi hàng tư tế của Ngài mặc lấy sự công chính, kẻ hiếu trung với Ngài được cất tiếng hò reo. Vì vua Đa-vít, trung thần của Chúa, xin đừng xua đuổi đấng Chúa đã xức dầu phong vương” (Tv 132:9-10). Muốn vậy thì chính bản thân phải biết hướng thượng và sống tốt càng ngày càng tiến bộ hơn, chứ không thể giậm chân tại chỗ, không thể ù lì hoặc gặp chăng hay chớ.

Thuở xưa, chính Đức Chúa đã chọn Sion, đã thích lấy chốn đó làm nơi Ngài ngự, như Ngài công khai tuyên phán: “Đây là chốn Ta nghỉ ngơi đến muôn đời, Ta sẽ ngự nơi này, vì Ta ưa thích” (Tv 132:14). Nhà Chúa là Nhà Cầu Nguyện của mọi dân tộc (Mt 21:13; Mc 11:17; Lc 19:46).

Đức Maria là Nhà Tạm đầu tiên, vì Đức Mẹ là Đấng-Mang-Thiên-Chúa (Theotokos, God-Bearer). Chúng ta cũng đã và đang được diễm phúc tương tự mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta được mang chính Đấng Cứu Thế trong lòng và hòa tan để kết hiệp mật thiết với Ngài, dù chúng ta chỉ là những tội nhân hoàn toàn bất xứng. Thế thì chúng ta cũng được diễm phúc lắm chứ!

Thánh Phaolô nói: “Vậy khi cái thân phải hư nát này mặc lấy sự bất diệt, khi cái thân phải chết này mặc lấy sự bất tử, thì bấy giờ sẽ ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Tử thần đã bị chôn vùi. Đây giờ chiến thắng!” (1 Cr 15:54). Chiến thắng cái chết để được phục sinh và trường sinh. Cùng với Đức Kitô và Đức Mẹ, cùng với Thánh Phaolô, chúng ta có thể dõng dạc vặn hỏi tướng quỷ Luxiphe: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tử thần có độc là vì tội lỗi, mà tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề Luật” (1 Cr 15:55-56). Ước gì mỗi chúng ta đều khả dĩ như vậy!

Tất nhiên không phải công cán của chúng ta, mà là đại ân của Thiên Chúa, như Thánh Phaolô đã nói: “Nhưng tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1 Cr 15:57).

Là Thiên Chúa, nhưng Thầy Giêsu vẫn có hiếu với Đức Mẹ. Điều này “nhắc nhở” chúng ta về chữ hiếu thảo. Một hôm nọ, khi Đại Sư Giêsu đang giảng dạy, giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Ngài: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!” (Lc 11:27). Ý nói là Thân Mẫu của Đại Huynh Giêsu, tức là Đức Mẹ. Thế nhưng Anh Hai của chúng ta thẳng thắn “sửa lưng” ngay, bằng cách đáp lại: “Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11:28).

Kỳ lạ quá, “nghe và giữ Lời Chúa” mà còn có phúc hơn. Có lẽ chúng ta không dám tin, nhưng đó lại là sự thật hơn cả sự thật. Điều đó chứng tỏ rằng việc sống Lời Chúa vô cùng quan trọng. Và đó mới thực sự chính là niềm hạnh phúc thật, vì nhờ biết hướng thượng mà chúng ta có thể chắc chắn sẽ được về trời gặp Đức Giêsu Kitô và gặp Hiền Mẫu của chúng ta: ĐỨC MARIA. Cầu chúc mọi người đều biết hướng thượng, luôn “ái mộ những sự trên trời” để có thể hy vọng “được chết lành trong tay Đức Mẹ” và sẽ “được thưởng cùng Đức Mẹ trên trời”.

Lạy Thiên Chúa, chúng con tạ ơn Ngài vì Ngài đã đại lượng và quan tâm, không chỉ ban cho mỗi chúng con có một người mẹ trần gian tuyệt vời, mà còn ban cho chúng con có một Người Mẹ Thánh là Đức Maria còn tuyệt vời hơn gấp bội. Xin giúp chúng con luôn biết sống xứng đáng với những gì chúng con lãnh nhận.

Lạy Thánh Mẫu Maria, xin hướng dẫn và che chở chúng con trên suốt cuộc lữ hành trần thế, xin dẫn chúng con đến với Chúa Giêsu, Con yêu Dấu của Mẹ, để chúng con cũng được đoàn tụ trong Đại Gia Đình Thiên Chúa trên Nước Trời vĩnh hằng.

Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ giàu lòng thương xót. Amen.

TRẦM THIÊN THU

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …