Kiếp Khốn Khổ gồm ba mẫu tự K (ca). Phát âm là “ca”, tức là hát, có vui vẻ mới ca, có sung sướng mới hát. Thế mà ở đây, 3 K lại không có chút gì vui vẻ hoặc sung sướng.
Khốn khổ cũng là khốn cùng. Ngày xưa, chữ KHỔ được đánh vần là “ca hát ô khô hỏi khổ”, khổ mà vẫn ca, khô người mà vẫn hát, vậy là chưa đến nỗi khổ. Ngày nay, chữ KHỔ được đánh vần là “khờ ô khô hỏi khổ”, nghĩa là khổ lắm, khổ thật, khổ đến nỗi khô người và khờ người ra. Ôi chao, khổ thật!
Vâng, Chúa Giêsu đã xác định rạch ròi: “Ngày nào có cái khổ của ngày đó” (Mt 6:34). Đời là bể khổ, khổ hải hoặc khổ ải, cho nên ai cũng đau khổ, chỉ khác nhau về mức độ. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ, muốn tránh đau khổ thì chỉ có cách duy nhất là “đi xuyên qua đau khổ”.
Đại văn hào Victor Hugo (thi sĩ, văn sĩ, kịch tác gia và tiểu thuyết gia người Pháp, sinh 26-2-1802, mất 22-5-1885) có tác phẩm nổi tiếng là “Les Misérables” (Những Kẻ Khốn Cùng, về sau có bản dịch “Những Người Khốn Khổ”), xuất bản năm 1862. Ông cũng là tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Notre-Dame de Paris” (1831) – bản Anh ngữ là “The Hunchback of Notre-Dame”, bản Việt ngữ là “Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà”.
Câu chuyện nói về xã hội Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ XIX, từ thời Napoléon I lên ngôi tới vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm trót gây ra thời trai trẻ. Bộ tiểu thuyết không chỉ nói tới bản chất của cái tốt, cái xấu, của luật pháp, mà còn là cuốn bách khoa thư đồ sộ về lịch sử, kiến trúc, chính trị, triết học, luật pháp, công lý, tín ngưỡng của nước Pháp nửa đầu thế kỷ XIX. Chính văn sĩ Victor Hugo đã viết cho người biên tập: “Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của tôi”. Và như một lời tiên tri, tác phẩm này trở thành hiện tượng văn học đúng như ông nói vậy! Tác phẩm “Les Misérables” đã được chuyển thành kịch, phim và nhạc kịch (Les Mis).
Chỉ vì ăn cắp một mẩu bánh mì cho con của người chị gái mà Jean Valjean phải tù khổ sai suốt 19 năm với số tù là 24061. Hết hạn tù, Jean Valjean cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. Khốn khổ cho anh vì anh phải mang theo giấy thông hành vàng – dấu hiệu là người đã từng bị tù tội. Vì vậy, Jean Valjean bị chủ quán trọ từ chối và buộc phải ngủ ngoài đường. May cho anh là giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện, đã cho anh trú ẩn. Khi mọi người đã ngủ, Jean Valjean lại ăn cắp mấy thứ đồ bạc của giám mục và chạy trốn, sau đó anh bị bắt, nhưng lại được giám mục Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Jean Valjean. Khi chia tay, vị giám mục già khuyên Jean Valjean là phải quyết tâm trở thành người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người.
Sau 8 năm, Jean Valjean mang tên ông Madeleine, đã trở thành một chủ xưởng giàu có và là thị trưởng thành phố nhỏ, Jean Valjean phải mang tên giả để tránh sự phát hiện của thanh tra Javert vẫn truy nã ráo riết. Tuy nhiên, số phận buộc Jean Valjean phải để lộ danh tính của mình khi một người đàn ông khác bị nhầm là Jean Valjean và bị bắt đưa ra tòa. Cùng lúc này, Jean Valjean gặp Fantine, một cô gái đang hấp hối sau khi bị sa thải khỏi xưởng của ông và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette, mà Cosette lại đang phải sống với gia đình Thénardier độc ác. Trước khi Fantine chết, Jean Valjean hứa chăm sóc Cosette cẩn thận. Jean Valjean trả tiền cho lão Thénardier để giải phóng cho Cosette và cùng em trốn lên Paris để tránh cuộc truy đuổi của Javert. Ở Paris, hai người trú trong một nhà dòng kín mà Javert không được quyền khám xét, vì vậy họ tạm thoát khỏi sự truy lùng gắt gao.
Truyện còn dài, nhưng xin tạm dừng ở đây. Tại Việt Nam, văn sĩ Nam Cao cũng có tác phẩm “Chí Phèo” (nguyên gốc là “Cái Lò Gạch Cũ”, 1941). Truyện nói lên tình trạng tha hóa của con người vì quá nghèo khổ, nhưng khi người ta muốn sống tốt cũng không được ai công nhận.
Tân ước có dụ ngôn “Phú Hộ và Ladarô Nghèo Khổ” (Lc 16:19-31). Cựu ước có một người “nổi tiếng” về kiếp sống khốn khổ, đó là ông Gióp, người đất Út: “Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con cái Phương Đông” (G 1:1-4). Nhìn chung cuộc sống của ông thật là ổn định, hạnh phúc cả tinh thần lẫn vật chất. Thế nhưng cuộc đời đâu phải lúc nào cũng “đẹp như mơ”.
Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: “Biết đâu các con trai ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng!” (G 1:5).
Chuyện gì đến cũng đã đến. Một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến báo hung tin cho ông Gióp: “Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay” (G 1:15). Chưa hết, một người khác lại chạy về báo: “Lửa của Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay” (G 1:16).
Tiếp theo là người thứ ba về thưa: “Người Canđê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay” (G 1:17). Rồi lại đến người thứ tư về báo: “Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay” (G 1:18-19).
Đúng là “phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Điều ông Gióp lo sợ đã hiện thực. Thế là mọi thứ tiêu tan thành mây khói. Tay trắng! Ông Gióp trở thành “kẻ khốn cùng”. Tuy nhiên, dù hung tin dồn dập, ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21). Dù đau khổ cùng cực, “ông Gióp không hề phạm tội cũng không buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa” (G 1:22). Thật đáng khâm phục ông Gióp!
Cũng chưa hết chuyện. Ông Gióp đã mất hết mọi thứ rồi, cơ thể ông bỗng dưng ngứa ngáy, mụn nhọt và lở chốc đầy mình, ông phải ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi. Chính vợ ông hết chịu nổi nên nguyền rủa: “Ông còn kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” (G 2:9). Khi “xuôi chèo, mát mái” thì không nói làm chi, nhưng nếu gặp đau khổ, liệu đức tin của chúng ta có bị lung lay? Thế mà ông Gióp vẫn vững lòng tin: “Cả bà cũng nói như một mụ điên. Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2:10). Một tấm gương sáng chói biết bao!
Thế nhưng, quả thật là phàm nhân yếu đuối, có lẽ do sức người có hạn, nhất là khi biết rõ mình vô tội, thế nên ông Gióp có lúc cũng tự nguyền rủa: “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời! Sao tôi không chết đi lúc vừa mới chào đời, không tắt thở ngay khi lọt lòng mẹ?” (G 23:3 & 11).
Đức khôn ngoan rất cần thiết, không gì sánh nổi, nhưng không ai biết chính xác. Có khi tưởng mình khôn mà hóa dại, có khi tưởng mình dại mà hóa khôn. Chỉ một mình Thiên Chúa mới thực sự khôn ngoan: “Đường nẻo của khôn ngoan một mình Thiên Chúa tỏ, chính Người biết nơi ở của khôn ngoan” (G 28:23).
Bản chất tốt lành, ông Gióp vẫn tín trung với Thiên Chúa. Ông Gióp tự nhận biết: “Tôi bị những người ít tuổi hơn nhạo cười. Bởi vì Thiên Chúa nới lỏng dây cung của tôi, Người làm tôi bị nhục, nên họ cũng chẳng coi tôi ra gì” (G 30:1 & 11). Và ông biết thân phận mình: “Giờ đây mạng sống tôi tàn lụi, những ngày khốn khổ vây bọc lấy tôi” (G 30:16).
Ông Gióp vững tin Chúa và khiêm nhường khi nhận định: “Tiếng kêu của những kẻ hèn yếu, của những kẻ khốn cùng đã vọng lên tới Chúa, và Người đã lắng nghe. Nhưng nếu Người cứ thản nhiên không đáp lại, ai lên án được Người, nếu Người ẩn mặt đi, nào có ai nhìn thấy? Tuy nhiên, Người vẫn chăm sóc mỗi dân tộc, mỗi cá nhân, không để cho kẻ gian ác cầm quyền, chẳng để cho ai đưa dân vào bẫy” (G 34:28-30).
Thấy ông Gióp khốn khổ tột cùng, bạn bè cũng xa lánh hết. Ông Gióp biết có những người còn ác tâm cho rằng ông “mở miệng nói chuyện không đâu, vì thiếu hiểu biết mà dài dòng văn tự” (G 35:16). Đời là thế! Đúng như ca dao Việt Nam nói: “Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bụm miệng người thế gian”. Tất cả là Thánh Ý Chúa, tất cả đều vì sáng danh Thiên Chúa!
Hết bĩ cực tới thái lai. Sau cơn mưa, trời lại sáng. Sự sung túc và hạnh phúc lại đến với ông Gióp vì ông vẫn một dạ trung thành và tín thác vào Chúa: “Đức Chúa đã khôi phục tài sản cho ông Gióp, khi ông chuyển cầu cho các bạn của mình. Đức Chúa đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia. Tất cả anh em, chị em ông, tất cả bạn bè cũ lại tìm đến ông; họ đã cùng ăn bánh trong nhà của ông. Họ chia buồn và an ủi ông về tất cả tai hoạ Đức Chúa đã giáng xuống trên ông. Mỗi người tặng ông một đồng bạc và một chiếc nhẫn vàng. Đức Chúa giáng phúc cho những năm cuối đời của ông Gióp nhiều hơn trước kia” (G 42:10-12).
Không chỉ vậy, ông Gióp còn được Chúa giáng phúc, thêm đông con, nhiều cháu, các con gái ông (cô “Bồ Câu”, cô “Hoa Quế” và cô “Phấm Thơm”) lại xinh đẹp hơn các cô gái trong vùng, và ông sống trường thọ. Quả thật, ai tin tưởng Chúa thì không bao giờ phải thất vọng.
Lạy Thánh Gióp, xin nguyện giúp cầu thay, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ khốn cùng!
TRẦM THIÊN THU