Home / Chia Sẻ / KHOA HỌC và TỘI PHẠM

KHOA HỌC và TỘI PHẠM

KHOA HỌC & TỘI PHẠMTrong khi hoạt động tội phạm không thể giảm thiểu thành hình ảnh não, thì việc hiểu các thay đổi trong chức năng não lại có thể cải thiện cách mà tội phạm được phục hồi.

Cuộc nghiên cứu công bố trên tạp chí “Proceedings of the National Academy of Sciences”, các khoa học gia thấy rằng việc quét não có thể tiên báo chính xác phạm nhân sẽ tái phạm hay không. Nhưng họ cho biết rằng kết quả của “neuroprediction” (tiên báo thần kinh) như vậy đòi hỏi thảo luận nghiêm túc về pháp luật và đạo đức trước khi được giới thiệu với các cơ quan pháp luật.

Đã nghiên cứu 96 nam phạm nhân gồm ăn trộm, ăn cướp, buôn bán ma túy và tấn công người khác. Tất cả đều đã bị kết án ít nhất 1 năm tù giam. Nhiều người đã từng nghiện rượu hoặc các chất gây nghiện khác, có 20% đã thỏa mãn tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh thái nhân cách hoặc động thái cực đoan về phản xã hội, nhưng không người nào phạm tội giết người. Tất cả đều đồng ý thực hiện nhiệm vụ đặc biệt để đo impulse control trong khi não được quét bằng máy fMRI. Những người tham gia nhấn một phím trên máy vi tính khi họ thấy chữ X, xuất hiện khoảng 84% lần. Nhưng không được nhấn bàn phím khi chữ K xuất hiện. Điều đó đòi hỏi hạn chế phản ứng tự động với bàn phím, vì chữ X thường xuyên xuất hiện.

Những lần quét não cho thấy những người có mức hoạt động thấp trong vùng não gọi là “anterior cingulate cortex” (ACC – vỏ não vành trước) khi họ xử lý vận động hơn 2 lần thì có thể bị bắt lại trong vòng 4 năm được phóng thích, so với những người năng động hơn ở vùng não. Thực nghiệm này thường kích hoạt vùng ACC, liên quan việc điều chỉnh cách cư xử đã được hoạch định, vì không nhấn phím khi chữ K xuất hiện đòi hỏi sự phản ứng được nhận thức và có tổ chức. Nguy cơ tăng lên vẫn còn dù sau khi các khoa học gia đã kiểm soát các yếu tố khã dĩ về tội phạm như tuổi tác, bệnh thái nhân cách (psychopathy) và các chứng nghiện.

Đối với các tội phạm không bạo lực, nguy cơ lại bị bắt còn cao hơn (khoảng 5 lần) đối với các tội phạm có hoạt động ACC yếu. Tuy nhiên, vì chỉ có vài trường hợp phạm pháp có bạo lực sau khi được phóng thích, các nhà nghiên cứu không thể xác định nguy cơ về bạo lực. Khoảng 53% lại bị bắt trong 4 năm nghiên cứu, nhưng vấn đề ít được tha và bị thử thách thì không thể tính toán được.

Kết quả cho thấy rằng hoạt động não như vậy có thể tiên báo chính xác về sự tái phạm, có thể có sự phức tạp sâu xa về các chiến lược phục hồi. Tác giả uy tín Kent Kiehl, giáo sư khoa tâm lý tại ĐH New Mexico, nói: “Thật phấn khởi vì cũng rất hữu ích vượt ngoài khả năng của chúng ta”. Chẳng hạn, hoạt động ACC tiên báo sự tái phạm tốt hơn vì ghi được xung lực của não.

Stephen Morse, giáo sư khoa luật và tâm lý học tại ĐH Pennsylvania, không tham gia nghiên cứu nhưng cùng làm việc với các tác giả về các dự án khác, nói: “Đó là bằng chứng về nghiên cứu khái niệm”.

Kiehl và các cộng sự thấy rằng khi kết hợp các kết quả từ việc quét não với thông tin về bệnh lý nhân cách và các yếu tố nguy cơ khác, khả năng xác định nguy cơ cao bị bắt lại cũng được cải thiện hơn, để có cách trị liệu. Ông nói: “Chúng tôi biết có những dạng điều trị nào đó có thể làm tăng các hoạt động ở đây”.

Chẳng hạn, trong cuộc nghiên cứu này, ông phải tìm cách đè nén cách phản ứng nhấn bàn phím, hoạt động này thường làm tăng hoạt động ở vùng ACC. Vì thế, việc huấn luyện các hoạt động đó có thể làm tăng hoạt động ở vùng ACC, và có thể hữu ích trong việc “điều trị” cách cư xử tội phạm. Khi việc huấn luyện tự kiểm soát như vậy có vẻ bình thường, nhưng một số nhà nghiên cứu nói rằng việc giúp các phạm nhân kiềm chế là kiểu đơn giản có thể giúp họ hạn chế các xung động “thâm căn cố đế” – như những thứ dẫn đến tái phạm các chứng nghiện hoặc tái phạm tội.

Nhưng đừng mong đợi “Minority Report” – tiên đoán kiểu tội phạm. Bà Kiehl nói:“Điều đó không sẵn sàng. Các nhà nghiên cứu cần tái tạo các kết quả và chiến lược quét não cần được thử nghiệm trên phạm vi lớn và với những người khác nhau”.

Tiên báo nào cũng không hẳn sai. Một số phạm nhân có hoạt động ACC thấp cũng vẫn không bị bắt lại. Để hữu ích ở tòa án, mọi dữ liệu quét não phải biết rõ tỷ lệ sai lệch, cần nghiên cứu thêm. Các nhà nghiên cứu nói: “Chúng tôi quan ngại rằng các dấu hiệu thần kinh sinh học có thể thực hiện khá hơn các dụng cụ hiện nay”.

Nhưng cả Morse và Kiehl tham gia hoạt động quét não đều có thể trở thành một trong trong các khí cụ mà hệ thống tư pháp có thể tiên báo việc bị bắt lại. Họ thấy việc quét não không khác việc đo cách cư xử như trắc nghiệm tâm lý hoặc lịch sử tiền án, mặc dù Kiehl thừa nhận rằng “việc quét não có vẻ hiếm vì giống như việc đọc não vậy”.

Thêm một vấn đề là phải sự khéo léo, dù hoạt động ACC thực sự có liên quan khuynh hướng tái phạm – hoặc đơn giản chỉ là những hành vi bất thường bị phát hiện. Vấn đề này gây cản trở cuộc nghiên cứu trước về việc tiên báo bạo lực.

Tuy nhiên, hoạt động não vẫn có thể tiên báo, và có thể giải thích hành vi phạm tội cũng có những trường hợp mới để nhận biết tội phạm như vậy và dẫn tới các nỗ lực phục hồi hiệu quả hơn.

TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ healthland.time.com)

Xem thêm

21-11-2024 10-08-06 PM

Lời Chúa – Thứ Sáu Tuần XXXIII Mùa Thường Niên 22/11/2024

Nguồn: Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế VN