Thánh Têrêsa Avila bẩm sinh đã là một nhà lãnh đạo, nhưng sức mạnh của bà được thể hiện hoàn hảo trong lò luyện tuân phục.
Thánh Têrêsa gia nhập Dòng Cát Minh vào thời điểm dòng này có phần lỏng lẻo. Có nhiều lý do giải thích cho điều này, bao gồm cả hậu quả của đại dịch Cái Chết Đen (Black Death) hồi thế kỷ 14, từ 1936 tới 1951. Ở Tây Ban Nha, chiến tranh liên miên và quá trình thuộc địa hóa đã làm suy giảm dân số nam giới và khiến một số lớn phụ nữ không thể tìm được chồng. Nhiều người chỉ đơn giản là gia nhập một dòng tu, không phải vì họ cảm thấy có ơn gọi, mà như một kế hoạch dự phòng.
Thánh Têrêsa trải qua gần 20 năm là nữ tu sống trong một nhà dòng có phần lỏng lẻo ở Avila, Tây Ban Nha, mà không hề hối tiếc về sự lỏng lẻo này. Bà chỉ đơn giản tuân theo quy tắc thoải mái của mệnh lệnh và vâng lời bề trên. Điều đó thật đáng khen!
Nhưng khi đọc cuốn Tự Thuật của Thánh Augustinô, Thánh Têrêsa bắt đầu trải nghiệm điều mà sau này bà gọi là “sự hoán cải lần thứ hai,” bao gồm ước muốn sống theo hình thức cai trị Cát Minh trước đây, đòi hỏi khắt khe hơn nhiều giống như các vị thánh mà bà rất tôn kính. Trong hoài bão lớn lao này, bà mau chóng nhận ra mình không đơn độc, như những nữ tu khác đã nói với bà rằng họ muốn phấn đấu theo đuổi sự thánh thiện một cách mãnh liệt hơn.
Đối với chúng ta, mục đích trở về cội nguồn dòng tu của Thánh Têrêsa nghe có vẻ là một mục đích hoàn toàn vô hại và đáng khen, nhưng không phải tất cả mọi người đều chia sẻ điều đó. Sáng kiến này phần lớn đã bị chỉ trích bởi những người phụ trách nhà dòng. Thánh Têrêsa đã gặp phải sự phản kháng đối với tầm nhìn của mình không chỉ từ thế giới bên ngoài mà nhất là từ những nữ tu Cát Minh.
Ở Avila, mọi người đều coi ý tưởng của bà là lố bịch, một số cho rằng bà kiêu ngạo vì những tham vọng như vậy. Tất nhiên, như mọi khi, vấn đề là làm thế nào để trả tiền cho nó. Avila đã có một số lượng lớn các cơ sở tôn giáo, cả giáo sĩ cũng như nhà nước đều tin rằng họ không đủ khả năng chi trả cho một cơ sở khác. Ý tưởng của Thánh Têrêsa dường như không chỉ là sự sỉ nhục cá nhân đối với các nữ tu mà còn là mối đe dọa đối với tài chính của cộng đoàn.
Các linh mục ở Avila rất phẫn nộ với Thánh Têrêsa đến nỗi ân nhân tài chính thân cận nhất của bà đã bị từ chối ân xá trừ khi ăn năn về việc liên kết với bà. Thậm chí các linh mục Cát Minh còn công khai chống lại bà trong các bài giảng. Khi Thánh Têrêsa ngồi nghe một bài giảng như vậy, bà không hề tức giận hay khó chịu, mà bà lại “cười rất bình an.” [1]
Thánh Têrêsa đã vâng lời người linh hướng khi ngài khuyên bà đừng thực hiện ý tưởng của mình – mặc dù bà đã có nhiều mặc khải về Chúa Kitô thúc giục bà hoàn thành công việc này. Rồi linh mục linh hướng qua đời, bà có linh hướng mới và được khuyến khích về việc cải cách của bà.
Cuối cùng, khi tu viện San Jose hoàn thành, Thánh Têrêsa cũng có thể sống ơn gọi của mình như ý muốn. Bà cho biết đó là khoảng thời gian yên bình nhất trong đời. Nhưng sau 4 năm, bà được Chúa Kitô kêu gọi thành lập thêm nhiều tổ chức tôn giáo, và bà lại gặp phải nhiều sự phản đối hơn.
Năm 1571, vị đại diện giáo hoàng ở Tây Ban Nha ra lệnh cho Thánh Têrêsa ngừng thành lập các tu viện, quay trở lại tu viện Encarnacion ban đầu của bà ở Avila và ở lại đó. Điều này có lẽ đã đủ gây sốc, nhưng vấn đề còn tệ hơn nữa, người đó đã phong bà làm bề trên tu viện cũ của bà. Nó trở nên lỏng lẻo hơn từ khi bà rời đi.
Nhiều nữ tu ở Encarnacion cũng chính là những người đã tố cáo Têrêsa hoặc vu khống bà 10 năm trước. Thậm chí một số nữ tu còn cố gắng ngăn cản Thánh Têrêsa bước vào nhà và la hét khi bà đến gần. [2]
Thánh Têrêsa vẫn bình tĩnh. Khi đến giờ ngồi vào tu nghị, Thánh Têrêsa đặt tượng Đức Mẹ lên ghế của bề trên và ngồi dưới chân tượng. [3] Bà nói với các nữ tu rằng bà không muốn làm bề trên mà chỉ nhận chức vụ với sự vâng phục. Nói chuyện riêng với từng người, bà nói rằng bà đồng ý rằng bà không xứng đáng. [4]
Mẹ bề trên mới không áp đặt các quy tắc của mình đối với các nữ tu mà chỉ yêu cầu họ tuân theo quy tắc riêng của mình. Các nữ tu không chỉ trở nên thánh thiện mà còn yêu mến Thánh Têrêsa và cố gắng bầu lại bà khi nhiệm kỳ của bà kết thúc.
Khi được giao cho một bề trên mới trẻ hơn 30 tuổi và chỉ mới là Dòng Cát Minh được sáu tháng, bà vẫn vui vẻ thề hứa vâng lời. Khi mệnh lệnh mâu thuẫn với những thị kiến mà bà có về Chúa, bà đã vâng lời bề trên của mình chứ không phải những thị kiến. Những hình ảnh xa hơn đã khen bà vì bà làm như vậy.
Những người phản đối Thánh Têrêsa đã nhiều lần tố cáo bà với Tòa Án Dị Giáo Tây Ban Nha, nhưng điều này tỏ ra là điều may mắn khi ngụy trang, khi bà giành được những người ủng hộ chủ chốt trong hệ thống giám mục. Trong cuộc phỏng vấn với Tòa Án Dị Giáo, người ta ghi lại rằng Thánh Têrêsa đã mỉm cười và thậm chí còn nói đùa.
Năm 1577, Sứ Thần Tòa Thánh qua đời và được thay thế bằng một giám mục có thái độ đối nghịch với Thánh Têrêsa. Nhưng nỗ lực của giám mục muốn hạn chế cuộc cải cách của Thánh Têrêsa chỉ giành được thiện cảm của bà trong Tòa án Hoàng gia Philip II. Cuối cùng, bá tước trách vị giám mục, người đã yêu cầu Vua Philip xin lỗi. Nhà vua, lúc đó là bạn thân và là người kiên trì ủng hộ Thánh Têrêsa, đã từ chối.
Cuối cùng, bá tước đã xin lỗi, và trái tim của vị sứ thần đã dịu lại đối với Thánh Têrêsa. Một ủy ban đã khuyên vị sứ thần trao cho dòng Cát Minh Discalced (đi chân đất) của Thánh Têrêsa được độc lập nhiều hơn khỏi những nữ tu Cát Minh Calced vốn đã phản đối họ rất nhiều. Một năm sau, ĐGH Grêgôriô XIII cho họ thành tỉnh dòng riêng. [5] Năm 1593, ĐGH Clement VIII đã thành lập Dòng Cát Minh đi chân đất thành một dòng riêng biệt với Bề trên Tổng quyền riêng.
Những lời hấp hối của Thánh Têrêsa là lời xác định về sự vâng lời: “Tôi là con gái của Giáo Hội.” [6] Năm 1622, chỉ 40 năm sau khi bà qua đời, ĐGH Grêgôriô XV đã phong thánh cho Thánh Têrêsa. Năm 1970, ĐGH Phaolô VI tôn vinh Thánh Têrêsa là Nữ Tiến Sĩ đầu tiên của Giáo Hội.
ALEC TORRES
TRẦM THIÊN THU (chuyển ngữ từ CatholicExchange.com)
Lễ Thánh Têrêsa Avila – 2023
[1] Vida, footnote 259. cf. [cf. P. Silverio, I, 270, n. Cf. ch. XXIII, para.5 “con gran paz se estaba riendo.”
[2] Walsh 389 citing Yepes lib 2 capit 24.
[3] Walsh 392 citing Yepes lib 2 Cap 25 and Ribera lib 3 cap 1.
[4] Walsh 392 citing Yepes lib 2 Cap 25 and Ribera lib 3 cap 1.
[5] Walsh 551.
[6] Walsh 579