Home / Chia Sẻ / ĐỒNG KẼM ĐỒNG XU CỦA TÔI ĐÂU?

ĐỒNG KẼM ĐỒNG XU CỦA TÔI ĐÂU?

dongkemdongxuTrong những ngày cuối niên lịch phụng vụ, khi mà Hội Thánh muốn mọi Kitô hữu suy niệm nhiều về các chân lý thời sau hết (tứ chung), chúng ta được mời gọi hướng tư tưởng về ngày “phán xét”, khi mỗi người đều phải “đứng trước mặt vị thẩm phán chí công.”  Để chuẩn bị cho ngày đó, vấn nạn sẽ là: vị Thẩm Phán sẽ dùng tiêu chuẩn nào để phán xét tôi, cái “chí công” của Ngài sẽ ra sao? Trình thuật Mác-cô hôm nay về “đồng xu đồng kẽm của bà góa” được đặt ngay trước bài giảng dài về cánh chung trong chương 13, chắc hẳn phải soi chiếu một điều gì đó vào các vấn nạn trên. Mong rằng nó sẽ mang lại một giải đáp đầy an ủi mang tính Tin Mừng thật sự cho cái viễn tượng phán xét, thường vẫn tạo nên bao hãi hùng kinh khiếp.

Thẩm Phán chí công sẽ xét xử theo tiêu chuẩn nào? Người ta vẫn thường dạy rằng Thiên Chúa phán xét mỗi người theo công tội họ đã làm trong cuộc sống: nếu là người lương thiện ngay lành, tôi sẽ được thưởng, còn nếu làm điều dữ điều trái, tôi sẽ bị luận phạt muôn đời muôn kiếp. Căn cứ theo tiêu chuẩn này, tôi sẽ là người hoàn toàn trách nhiệm và chủ động về thưởng phạt; ơn thánh Chúa nếu có, cũng chỉ đóng vai trò trợ giúp. Tuy nhiên Giáo lý Công giáo lại dạy rằng, ơn cứu độ của Đức Kitô là cần thiết (essential) cho hết thảy mọi người, vì mọi người đều phạm tội. Nếu quả thật như thế, thì quan niệm phán xét trên có cái gì đó không ổn! Không một ai, cho dầu có cố gắng tu luyện tới đâu đi nữa, có thể ra trước tòa phán xét “xúng xính trong bộ áo thụng… đáng chiếm ghế danh dự” vì đinh ninh rằng khi còn sống mình đã thu tích đủ “công nghiệp” để đáng được thưởng công. Trước mặt vị Thẩm phán chí thánh chí công đó, mọi người đều chỉ là: “đầy tớ vô dụng” (Lc 17:10). Thế nhưng may mắn thay trong ngày phán xét, vị Thẩm Phán lại cũng chính là Giêsu đang “ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho đền thờ… quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao.” Người sẽ không khen thưởng những kẻ bỏ thật nhiều tiền vào thùng, nhưng lại đề cao “một bà góa nghèo”, vì bà đã dâng cúng vào đền thờ “hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu” mà bà đã “rút ra từ cái túng thiếu của mình.”  Như thế để chuẩn bị sẵn sàng cho ngày ra trước vị Thẩm Phán chí công, tôi rất cần biết cái “rút ra từ cái túng thiếu của mình” đó có nghĩa là gì? Làm thế nào để Ngài cũng sẽ gọi các thần thánh lại, chỉ vào tôi và nói: “tên nghèo nàn đốn mạt này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết!”

“Đồng tiền kẽm… rút ra từ cái túng thiếu” chắc chắn không phải là: các việc lành phúc đức tôi đã làm được trong đời, các thành công hoành tráng để có thể xứng đáng được “người ta chào hỏi” tung hô trên thiên quốc; đó phải mãi mãi vẫn là những gì vô giá trị như đồng kẽm, đồng xu trước mặt người đời, nhưng lại vô cùng quí hóa trước mặt Thiên Chúa từ nhân. Phải chăng đó là: những cố gắng, những nỗ lực vươn lên khỏi sự thấp hèn yếu đuối tột cùng của mình… nhưng đã thất bại, vẫn hoàn toàn sụp đổ chẳng đi tới đâu. Sẽ chẳng bao giờ có ai trong đời, ngay cả chính tôi, đánh giá cao những điều đó, nếu không có cặp mắt “quan sát” vô cùng chí công nhưng rất mực nhân hậu của Đức Kitô từ nhân. Có thể như phần đa mọi người, tôi phải thừa nhận: bất chấp những nỗ lực cố gắng, đời mình thành đạt không nhiều, nhưng thất bại thì lắm; “Điều tôi muốn thì tôi không làm, còn điều tôi ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7:15).Rất nhiều khi tôi thấy mặc cảm và thất vọng vô cùng về các yếu đuối, sa ngã mình vướng mắc.

May mắn thay, trong niềm tin vào Thiên Chúa từ nhân, suy đi nghĩ lại, tôi còn thấy: đời mình – và rất có thể nhiều mảnh đời khác cũng thế – không thiếu những đồng kẽm đồng xu của các nỗ lực vô vọng này; vì tuy được tạo dựng “nhân chi sơ tính bản thiện”, và mang trong người “hình ảnh của Thiên Chúa”, kiếp sống ô trọc nào mà không tránh khỏi các bất toàn yếu đuối? Do đó điều quan trọng nhất trong đời chưa hẳn là tránh được tội lỗi, nhưng là làm sao tranh thủ được cặp mắt “quan sát” đầy từ tâm ấy, cặp mắt từng nhận ra giá trị của “đồng kẽm” nơi bà góa, đồng xu nơi Phê-rô, nhưng lại không tìm thấy nơi các Biệt phái, thượng tế. Chỉ có thế thôi, và ngày phán xét sẽ đâu còn gì đáng sợ nữa!

Mẹ Tê-rê-sa Calcutta hay lặp lại câu nói sau đây: “Chúa không muốn nhìn thấy bao nhiêu việc bác ái tôi đã làm, nhưng ngài muốn nhìn thấy bao nhiêu bác ái tôi đã nỗ lực đem vào các công việc của tôi”. Hình như Lời Chúa hôm nay cũng nhắc lại cùng một chân lý đó: Chúa không phán xét tôi căn cứ vào những gì tôi đạt được, nhưng cặp mắt nhân ái của Người muốn tìm thấy nơi tôi những đồng kẽm nhỏ nhoi của nỗ lực vươn lên thầm kín trong mọi tình huống cuộc đời. “Còn bà này thì rút ra từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản” hẳn mang nội dung rất an ủi đó chăng?

Nếu quả là như thế thì, cho những người yếu đuối và tội lỗi như tôi, Tin Mừng đích thực là đây: Tin Mừng có khả năng làm cho đứa con hoang đàng hay tên cướp bị tử hình trên thập giá thay vì hãi sợ, sẽ ra trước vị Thẩm Phán “đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu rỗi” (Lc 21:28).

“Hãy tạ ơn Chúa vì ngài nhân lành, vì tình thương của ngài bền vững muôn năm!” Lạy Chúa, con muốn cất lời ca ngợi lòng thương xót hải hà của Chúa, khi sống và nhất là trong giờ chết. Lòng thương xót đó cho phép con không mạc cảm trước những yếu đuối thiếu xót của mình, hơn nữa còn có khả năng biến chúng thành nguồn an ủi và hy vọng cho đến muôn đời. Xin cho con đừng bao giờ xa rời cặp mắt yêu thương đó, bây giờ và trong giờ lâm tử. Amen.

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

Xem thêm

Lc 1,39-45

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG, NĂM C, CỦA LM GIUSE ĐỖ VĂN THUỴ

CHÚA NHẬT 4 MÙA VỌNG NĂM C Cuộc Thăm Viếng của Đức Maria (Lc 1,39-45) …