Trình thuật Lc 9:28b-36 (≈ Mt 17:1-8; Mc 9:1-9) cho biết Chúa Giêsu đã biến hình trên Núi Tabor trước sự chứng kiến của ba môn đệ thân tín nhất: Phêrô, Giacôbê và Gioan.
Trước khi cho họ nếm vị ngọt ngào của niềm hạnh phúc đích thực, Chúa Giêsu nói: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết, trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực.” Phải chăng Ngài ám chỉ Gioan?
Sau đó một tuần, Ngài đem ba ông đi theo tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt họ, y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Thật kỳ lạ, họ thấy có ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Thầy Giêsu. Lúc đó, Phêrô rất hưng phấn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia.” Chỉ cần làm lều cho ba bề trên thôi, còn ba đệ tử thì sao cũng được, miễn là cứ có cảm giác vui sướng kỳ lạ như thế. Phêrô có “chạm mạch” bất ngờ không nhỉ? Chắc chắn “không.” Rất tỉnh táo. Nhưng vì quá đỗi hạnh phúc, một cảm giác chưa bao giờ ông có. Không thể diễn tả được!
Thật ra ông Phêrô không biết phải nói gì, vì các ông vừa kinh ngạc vừa kinh hoàng. Chắc hẳn họ cũng vừa sợ vừa lo, nhưng cũng sung sướng và vui mừng. Cảm giác rất khó phân biệt. Có lẽ cũng tương tự mất trí vậy, chẳng nhớ gì hết. Đang phấn khởi thì bỗng một đám mây bao phủ các ông. Thật tiếc!
Và rồi họ cứ từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Họ chưa kịp hiểu thì lại có đám mây phát ra tiếng nói: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Họ nhìn quanh thì không còn thấy ai ngoài Thầy Giêsu. Sao thế nhỉ? Chân vẫn chạm đất, mắt vẫn mở, hoàn toàn tỉnh táo chứ không mộng du. Lạ quá chừng luôn!
Hạnh phúc đích thực có khác, không như hạnh phúc đời thường. Dọc đường từ trên núi xuống, đi bên Thầy mà không ai dám hỏi điều gì. Chúa Giêsu cũng chẳng nói gì, nhưng Ngài truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.
Núi Tabor cũng gọi là Núi Biến Hình, là Har Tavor, Itabyrium hoặc Jebel et-Tur. Núi Tabor tọa lạc tại miệt dưới Galilê, Israel, thuộc phía Đông thung lũng Jezreel, cách Biển Galilê 11 dặm (18 km) về phía Tây.
Sau khi Chúa Giêsu tiên báo cuộc thương khó lần thứ nhất, (Mt 16:21-23; Mc 8:3 -33; Lc 9:22) và cũng là lần ông Phêrô bị nguyền rủa “nặng nề” là Satan, Ngài đã cho ba môn đệ thân tín đi theo lên núi Tabor và cho họ được “nếm thử” niềm hạnh phúc đích thực của Nước Trời qua sự kiện Ngài biến hình khi đàm đạo với ông Êlia và ông Môsê. Để củng cố đức tin cho họ, Ngài đã cho họ thấy vinh quang của Ngài rạng ngời như vậy.
Như chúng ta biết, đã có một số vị thánh được thị kiến về những điều khác nhau: Thánh Teresa Avila (1515-1582) được thị kiến Hỏa Ngục, Thánh Margaret Mary Alacoque (1647-1690) được thị kiến Thánh Tâm Chúa Giêsu với ngọn lửa và vòng gai quấn quanh, Chân phước Anne Catherine Emmerich (1774-1824) được thị kiến Bữa Tiệc Ly, Thánh Faustina Kowalska (1905-1938) được thị kiến Hỏa Ngục và các thị kiến khác, đồng thời nhận sứ vụ loan báo Sứ điệp Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Còn nhiều thị nhân khác, trong đó có những người chúng ta chưa hề nghe nói tới.
Thời Cựu Ước đã có một số người được thị kiến và đối thoại với Thiên Chúa, trong số đó có cậu bé Đanien. Ngôn sứ Đanien kể lại giấc mộng: “Tôi đang nhìn thì thấy đặt những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an tọa. Áo Người trắng như tuyết, tóc trên đầu Người tựa lông chiên tinh tuyền. Ngai của Người toàn là ngọn lửa, bánh xe của ngai cũng rừng rực lửa hồng. Từ trước nhan Người, một sông lửa cuồn cuộn chảy ra. Ngàn ngàn hầu hạ Người, vạn vạn túc trực trước Thánh Nhan. Tòa bắt đầu xử, sổ sách được mở ra.” (Ðn 7:9-10)
Thị kiến đó là quang cảnh Ngày Phán Xét, khi Đức Kitô tái lâm để phân biệt chiên với dê, tách cỏ lùng khỏi lúa. Đó cũng chính là Giờ Công Lý nghiêm minh, bởi vì Giờ Thương Xót đã hết – tức là lúc Vị Thẩm Phán chí công của Tòa Thượng Thẩm nghiêm xét mọi người để thưởng công hoặc tuyên án phạt đời đời: “Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tùy theo việc mình làm.” (Kh 22:12)
Ngôn sứ Đanien cho biết thêm: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa: có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Người tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.” (Ðn 7:13-14) Những lời mô tả rất rõ ràng, rạch ròi, cho thấy những hình ảnh chính xác và kỳ lạ. Đó không là chuyện vui hoặc hù dọa, cũng chẳng là huyền thoại hay cổ tích, và cũng chẳng là ngụ ngôn. Đó là sự thật hoàn toàn.
Quả thật, Thánh Vịnh gia động viên và tiên báo: “Chúa là Vua hiển trị, hỡi địa cầu, hãy nhảy mừng lên, vui đi nào, ngàn muôn hải đảo! Mây u ám bao phủ quanh Người, bệ ngai rồng là công minh chính trực. Núi tan chảy như sáp, khi diện kiến Thánh Nhan vị Chúa Tể hoàn cầu. Trời xanh tuyên bố Người là Đấng chính trực, hết mọi dân được thấy vinh quang Người.” (Tv 97:1-2, 5-6) Chắc chắn phàm nhân không thể nào chịu nổi nếu nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa bằng mắt thường.
Tất cả mọi thụ tạo đều phải tuân phục Ngài, bởi vì “Ngài là Đấng Cao Cả trên khắp địa cầu, Ngài trổi vượt chư thần hết thảy.” (Tv 97:9) Chắc chắn chỉ có Ngài là Thiên Chúa, Đấng Tam Vị Nhất Thể, Đấng “duy nhất và chân thật.” (Ga 17:3)
Chính Thánh Phêrô đã “thực mục sở thị” Thầy Giêsu và đầy kinh nghiệm nhờ những tháng năm theo Ngài rong ruổi khắp nơi, và ông mạnh dạn minh chứng: “Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người.” (2 Pr 1:16) Thật tuyệt vời! Và rồi ông cho biết thêm: “Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: ‘Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến’.” (2 Pr 1:17-18)
Để kết luận, ông nói: “Như vậy, chúng tôi lại càng thêm tin tưởng vào lời các ngôn sứ. Anh em chú tâm vào đó là phải, vì lời ấy như chiếc đèn tỏ rạng giữa chốn tối tăm, cho đến khi ngày bừng sáng và sao mai mọc lên soi chiếu tâm hồn anh em.” (2 Pr 1:19) Như người việt nói: “Bảy mươi còn phải học bảy mốt.” Chúng ta là hậu duệ xa lắc xa lơ, không thể dám dại đột mà làm ngơ những lời chứng của Thánh Phêrô. Người thật và việc thật.
Có tin nhận thì mới tín thác, đó là điều tất nhiên, nhưng không dễ thực hiện một sớm một chiều, thế nên Chúa Giêsu động viên: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Tin tưởng và ảo tưởng rất dễ lẫn lộn, cần phải có khả năng phân định rạch ròi. Có những thứ được tận mắt tỏ tường mà đôi khi vẫn không tin hoặc cứ bán tín bán nghi. Thực sự rất khó. Đức tin vẫn cần lý trí, nếu không sẽ dễ trở thành cuồng tín, mà cuồng tín là phi tôn giáo. Sách “Gương Chúa Giêsu” phân biệt: “Lý trí con người yếu đuối nên thường có thể làm sai, duy chỉ có đức tin chân chính mới hoàn toàn không sai lầm.” Đức tin chân chính thực sự rất quan trọng.
Tuy không diễm phúc được thị kiến như các thánh nhưng chúng ta vẫn có nhiều cách “thị kiến” khác – chẳng hạn chiêm ngưỡng thiên nhiên hoặc nhìn vào các biến cố của cuộc đời – cả tốt và xấu. Xin tạm gọi đó là “tín kiến” (thị kiến bằng đức tin). Quả thật, đa số các thánh cũng “thị kiến” với đức tin giữa đời thường như vậy.
Chúa Giêsu cho các môn đệ biết Ngài “phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.” (Mt 16:21) Nghe vậy, các ông chưng hửng, thất vọng và hụt hẫng. Bao năm gắn bó, đồng lao cộng khổ với Thầy, chấp nhận “nằm gai” với hy vọng được “nếm mật,” kiên quyết một lòng một dạ theo Thầy, bỏ mọi sự để đi khắp nơi với Thầy, chỉ mong đến lúc Thầy được vinh quang hiển hách thì mình cũng được hưởng chút công lao là chức tước và bổng lộc. Chính hai người con của ông Dêbêđê (Giacôbê và Gioan) đã từng xin Thầy Giêsu: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10:37) [Mt 20:20-23 nói rằng người mẹ xin dùm.] Nào ngờ Thầy lại sắp… chịu chết. Lâu đài kỳ vọng chợt sụp đổ như bị động đất với cường độ mạnh, mộng vàng tương lai chợt tan thành mây khói. Thế là hết!
Chúa Giêsu biết các đệ tử “ấm ức” và thất vọng lắm, thế nên Ngài dẫn ba “đệ tử ruột” lên núi, cho các ông tận mắt chứng kiến vinh quang rực rỡ của Ngài. Ngài biết sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà các môn đệ cũng là những phàm phu tục tử. Nếu không mặc khải cho các ông biết chính Ngài thực sự là Thiên Chúa thật, có thể các ông sẽ rút lui, bỏ của chạy lấy người, không lời từ biệt.
“Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.” (Rm 7:19 & 21) Con người là thế. Do vậy mà cứ phải nỗ lực không ngừng!
Lạy Thiên Chúa là Vĩnh Phúc đích thực, xin giúp chúng con biết Ngài và biết mình để chúng con đủ can đảm buông bỏ mọi thứ trần tục mà sống cho Ngài một cách trọn vẹn, đáng hưởng phúc trường sinh Ngài ban. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU